đàn ông xương trắng nặng quằn

Bác sĩ chia sẻ, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, 92,7% người đau nhức xương khớp sử dụng chiết xuất cây móng quỷ và vỏ liễu trắng cải thiện chỉ sau 1-2 tháng. Sau một thời gian kiên trì sử dụng sản phẩm chiết xuất từ cây móng quỷ và vỏ liễu trắng, Chú Hương vui Bạn đang xem: Phân tích 8 câu cuối trong đoạn trích Trao duyên - Văn mẫu 10 hay nhất tại TRƯỜNG ĐH KD & CN Hà Nội Phân tích 8 câu cuối trong đoạn trích "Duyên phận" Trao Duyên là một trong những đoạn trích cảm động và đau thương nhất trong Truyện Kiều, ở đó … Lưng ong in bóng trên đồng Đong đưa muối mặn, ròng ròng mồ hôi Trời xanh… Muối trắng… Ngút trời Áo em bạc phếch mồ hôi mặn mòi. Nón sao trắng quá… Nón ơi Nón cõng nắng trời, che mát cho em Quằn vai gánh muối nặng thêm Mồ hôi bao giọt thấm mềm muối không? Năm tháng qua…giờ đã là ông bà Nhắc chuyên xưa…thêm đậm đà tình lính Với cô giáo…thêm lung linh cuộc đời 9. BÀI THƠ: TÌNH THƯ & LÍNH Thơ: Đắc Nguyễn Chẳng bên nhau..em đừng buồn nữa nhé Xa bây giờ ..có thể gặp ngày mai Nợ sông hồ anh gánh nặng hai vai Người đàn ông đã nuôi lại râu, trở lại với bộ trang phục áo dài trắng, quấn khăn đen của Taliban. quận Thành Nội, Huế. Thế là sau đấy, giữa lửa đạn và thịt đổ xương rơi, qua tiếng thét trong máy truyền tin, cái tên ngụy trang "Phu Nhơn" ra đời, nghe thật lạ Bước vào nhà ông Phương, chúng tôi bắt gặp người phụ nữ tội nghiệp đứng dựa cửa nhìn ra - đó là bà Nguyễn Thị Lĩnh (SN 1972 - em gái ông Phương). Còn trong góc nhà tối tăm, là người đàn ông có vẻ ngoài như bộ xương khô nằm quằn quại trên giường vì căn bệnh ung thư máu hành hạ. Còn bà Lĩnh bị bệnh thiểu năng trí tuệ (Ảnh: Nguyễn Tú). Vay Tiền Nhanh Ggads. Nghe tụng Kinh Vu Lan Báo Hiếu để bày tỏ lòng tri ân, báo hiếu ân đức của đấng sinh thành nên chúng ta nhân dịp lễ Vu Lan. Qua hàng nghìn năm, Vu Lan báo hiếu chính là một trong những ngày lễ có sức sống văn hóa mạnh liệt nhất của đời sống tinh thân mỗi người dân Việt Nam. Trong truyền thống đạo lý người Việt thì báo đáp cha mẹ, ông bà tổ tiên chính là thể hiện đạo hiếu có ý nghĩa quan trọng nhất trong đời sống chúng ta. Ngày lễ Vu Lan báo hiếu đã trở thành ngày lễ mang đậm nét nhân văn, thể hiện rõ đạo lý đền ơn đáp nghĩa của dân tộc. Mục lục1 Nguồn gốc và ý nghĩa của ngày lễ Vu Lan báo Nguồn gốc lễ Vu Ý nghĩa ngày lễ Vu Lan báo hiếu2 Ý nghĩa đúng đắn và đầy đủ của Kinh Vu Lan Báo Báo hiếu về vật Báo hiếu về tinh thần3 Sơ lược nội dung Kinh Vu Lan Báo Phần 1 Nguyên nhân Đức Phật thuyết Phần 2 Thế Tôn chỉ dạy Ngài Mục Kiền Liên con đường hay phương pháp để cứu mẹ mình thoát khỏi thảm Phần 3 Thế Tôn chỉ dạy bổn phận và phương pháp thể hiện hiếu thảo đối với cha mẹ của tất cả mọi người4 Nghi thức tụng kinh vu lan báo hiếu Cúng Kỳ Tán Thán Quán ảnh Tán Lư Chú ại Khai Kinh Phật Nói Kinh Vu Lan Phật Thuyết Kinh Báo áp Công Ơn Cha Mẹ5 Hướng dẫn một số quy định khi cách tụng kinh6 Kinh vu lan báo hiếu MP3 do thầy Thích Trí Thoát tụng Nguồn gốc và ý nghĩa của ngày lễ Vu Lan báo hiếu Nguồn gốc lễ Vu Lan Lễ Vu Lan xuất phát từ sự tích Bồ Tát Mục kiều liên đại hiếu đã cứu mẹ mình khỏi kiếp ngạ quỷ. Từ đó, lễ Vu Lan đã trở thành ngày tưởng nhớ công ơn cha mẹ và tổ tiên. Có ý nghĩa nhắc nhở mỗi người biết trân trọng những gì mình đang có. Nhắc nhở bổn phận làm con phải luôn nhớ công ơn sinh dưỡng của cha mẹ. Kể từ khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam thì ngày lễ Vu Lan đã trở thành truyền thống của tinh thần báo hiếu , báo ân phù hợp với tinh thần tín ngưỡng đền đáp công ơn tổ tiên có ý nghĩa thiêng liêng của người dân Việt. Ý nghĩa ngày lễ Vu Lan báo hiếu Lễ Vu Lan báo hiếu không đơn thuần chỉ có ý nghĩa tôn giáo thiêng liêng mà đã trở thành lễ hội văn hóa tình người. Pháp hội Vu Lan còn có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc hướng mỗi người trở về với cội nguồn dân tộc về đạo lý uống nước nhớ nguồn. Ngày lễ Vu Lan có ý nghĩa báo hiếu công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, không chỉ là ngày lễ của Phật tử mà đã trở thành một lễ hội văn hóa tinh thần chung của cả xã hội mang đến thông điệp về lòng biết ơn như một biểu hiện và cư xử văn hóa đáng được con người lưu tâm. Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, tinh thần đạo hiếu cần được đề cao và biểu dương mạnh mẽ hơn để truyền thống đó luôn được bồi đắp, ngày càng trở thành sức mạnh văn hóa của dân tộc hôm nay và mãi mãi về sau. Ý nghĩa đúng đắn và đầy đủ của Kinh Vu Lan Báo Hiếu Lòng hiếu đạo của con cái đối với cha mẹ không chỉ thể hiện trong ngày lễ Vu Lan. Công ơn cha mẹ như trời bể, làm con suốt đời báo ơn cha mẹ vẫn chưa đủ Tuy nhiên, khi báo hiệu thì con cái phải thể hiện quan niệm sáng suốt và đúng đắn mới thật sự có ý nghĩa Báo hiếu về vật chất Con cái phải hầu hạ thờ cúng, thay làm các việc nặng nhọc săn sóc miếng ăn giấc ngủ không để cho cha mẹ mình thiếu thốn. Tuy nhiên, con cái cũng phài sáng suốt khi báo hiếu cha mẹ, không nên quá chiều theo những mong muốn của cha mẹ mà tạo ra nhửng nghiệp dữ gây tội để làm cho cha mẹ mình được sung sướng về vật chất. Làm như vậy không phải là báo hiếu mà chính là bất hiếu gây ra tội lỗi thêm cho cha mẹ và chính bản thân mình. Bên cạnh đó, báo hiếu về vật chất dù cho đầy đủ đến mấy đi nữa cũng chẳng qua là làm cho cha mẹ mình được vui vẻ thỏa mãn trong kiếp hiện tại. Cái dư giả vật chất là vui giả tạm vui trong sanh tử luân hồi. Chính vì thế, nếu chỉ báo hiếu về vật chất thôi là chưa đủ. Báo hiếu về tinh thần Con cái phải biết báo hiếu tinh thần cho cha mẹ. Báo hiếu về tinh thần chính là làm sao cho tinh thần của cha mẹ được nhẹ nhàng đi dần đến chỗ được giải thoát. Con cái phải khuyên cha mẹ tin vào nhân quả tội phước và quy y Tam Bảo, bố thí phóng sinh, niệm Phật, làm việc lành nhằm tu nhân để được giải thoát. Có như vậy thì không những ở hiện tại cha mẹ được yên vui mà đời sau cũng được nhiều phước báo. Sơ lược nội dung Kinh Vu Lan Báo Hiếu Nội dung Kinh Vu Lan Báo Hiếu gồm có 3 phần Phần 1 Nguyên nhân Đức Phật thuyết kinh Ngài Mục Kiền Liên là đại đệ tử của Thế Tôn, với lòng hiếu thảo mong muốn giúp đỡ mẹ mình đã lâu, nay nhân dịp Ngài chứng đắc sáu phép thần thông, liền muốn dùng những thần thông ấy tìm xem người mẹ quá cố của mình hiện thời đang ở đâu, để cứu giúp và báo đáp ân đức sinh thành. Ngài đã dùng Thiên nhãn thông để nhìn suốt khắp sáu cõi, thì biết được rằng mẹ mình đang ở cõi ngạ quỹ, bị bỏ đói chỉ còn trơ da xương và khốn khổ vô cùng. Thấy vậy, Ngài liền mang cơm đến cho mẹ ăn. Được cơm, mẹ Ngài vội lấy tay trái che dấu không cho ai nhìn thấy, tay phải bốc cơm mà ăn. Nhưng thương thay, nắm cơm vừa tới miệng liền biến thành cục lửa than cháy bỏng, nên không thể nào ăn được, cứ như thế tái diễn mãi, tình cảnh vô cùng thương tâm. Ngài Mục Kiền Liên không thể nào cứu giúp mẹ, liền trở về bạch với Đức Phật sự việc như thế để nhờ Thế Tôn giúp đỡ. Phần 2 Thế Tôn chỉ dạy Ngài Mục Kiền Liên con đường hay phương pháp để cứu mẹ mình thoát khỏi thảm cảnh Theo Kinh Vu Lan Báo Hiếu, Thế Tôn đã giải thích cho ngài Mục Kiền Liên rõ, vì căn tánh tham sân si của mẹ Ngài quá sâu dày, bất thiện nghiệp quá nặng nề, nên phải thọ quả báo tương ứng. Thế nên không phải chỉ riêng một mình Ngài Mục Kiền Liên không cứu được mẹ mình, mà thậm chí các vị đạo sỹ, các vị thiên thần, cho đến Tứ thiên vương cũng không thể nào làm gì được. Và biện pháp duy nhất là phải nhờ vào uy lực của chư Tăng mới có thể cứu được mẹ Mục Kiều Liên. Nhân ngày Tự tứ vào ngày rằm tháng 7, các hiền thánh tăng thuộc hàng Thanh văn, Duyên Giác đủ sáu phép thần thông giáo hóa tự tại, hay là các Bồ tát Đại sĩ thuộc hàng Thập địa đang hiện thế phương tiện tỷ kheo, tất cả đều quy tụ trong Tăng chúng đồng đẳng nhất tâm tập hợp về cùng một trú xứ để thọ lễ Tự tứ. Vì tất cả các vị tỷ-kheo tụ hợp về thọ lễ Tự tứ đều là những người có đầy đủ giới hạnh trang nghiêm, có chánh định thù thắng, có chánh trí tuệ thù thắng nên tạo thành giới pháp đạo đức sâu rộng mênh mông, có oai lực cảm ứng, có thần lực hộ trì chiêu cảm, có hiệu lực tác động thật là vô cùng linh ứng, quảng đại, vô biên. Vào ngày Tự tứ vào rằm tháng bảy này, chúng ta, mỗi người hãy vì cha mẹ hiện tại và trong bảy đời quá khứ, cùng những người đang ở trong vòng khổ nạn mà sửa soạn các loại đồ ăn thức uống, quả củ, trái cây đủ loại hương vị, ngon bổ, thượng vị, chay tịnh các loại nhang đèn, hương hoa thanh tịnh mà dâng cúng dường các vị Hiền thánh tăng. Khi thực hiện các điều trên với lòng thành kính thì cha mẹ và bà con trong đời này, nếu đã quá vãng thì được thoát khổ trong ba đường địa ngục, ngạ quỹ, súc sinh không còn cảnh đói khổ. Nếu cha mẹ đang còn sống thì được hưởng phước lạc sống lâu, đến như cha mẹ trong bảy đời sẽ được tái sinh nơi Thiên giới Tha hóa tự tại. Sau khi Ngài Mục Kiền Liên thực hiện lời chỉ dạy của Thế Tôn tức thời tiếng rên la bi thảm của mẹ Ngài không còn nữa và trong ngày ấy bà được thoát khỏi cảnh khổ trong kiếp ngạ quỷ. Phần 3 Thế Tôn chỉ dạy bổn phận và phương pháp thể hiện hiếu thảo đối với cha mẹ của tất cả mọi người Trong Kinh Vu Lan Báo Hiếu, Đức Phật dạy bất cứ ai đều cũng có thể thực hiện được lòng hiếu thảo của mình đối với cha mẹ hiện tiền hay quá cố bằng cách vào ngày rằm tháng bảy. Cầu nguyện cho cha mẹ mình được sống lâu trăm tuổi. Cha mẹ trong bảy kiếp mình được thoát khỏi cảnh khổ được sanh thiên giới. Nghi thức tụng kinh vu lan báo hiếu Được biên dịch bởi thầy Thích Minh Thời Trước khi tụng kinh hãy thắp 3 cây hương, quỳ ngay thẳng, cầm hương ngay trán niệm lớn bài cúng hương Cúng Hương Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam bảo Thề trọn đời giữ ạo Theo tự tánh làm lành Cùng pháp giới chúng sanh Cầu Phật từ gia hộ Tâm Bồ ề kiên cố Xa bể khổ nguồn mê Chóng quay về bờ giác. Xá rồi đọc tiếp bài kỳ nguyện Kỳ Nguyện Nay chính là ngày chư Tăng kiết hạ đem đức lành chú nguyện chúng sanh, chúng con một dạ kính thành, cúng dường trì tụng đem công đức này, nguyện khắp mười phương ba ngôi Tam bảo, ức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, ức Tiếp dẫn ạo Sư A Di à Phật, cùng các vị Bồ tát, tịnh ức chúng Tăng, từ bi gia hộ, cho Cửu Huyền Thất Tổ, cha mẹ nhiều đời của đệ tử, cùng tất cả chúng sanh sớm rõ đường lành thoát vòng mê muội, ra khỏi u đồ, siêu sanh Lạc Quốc. Ngưỡng mong oai đức vô cùng, xót thương tiếp độ. Nam mô Thập Phương Thường Trú Tam bảo 3 lần ứng dậy cắm hương và đọc bài kệ Tán Thán Phật Tán Thán Phật ấng Pháp Vương Vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loại Quy y trọn một niệm Dứt sạch nghiệp ba kỳ Xưng dương cùng tán thán Ức kiếp không cùng tận. Quán Tưởng Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng. ạo cảm thông không thể nghĩ bàn, Lưới đế châu ví đạo tràng. Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời. Trước bảo tọa thân con ảnh hiện Cúi đầu xin thệ nguyện Quy y. Xá 3 xá rồi xướng lạy ảnh Lễ Chí tâm đảnh lễ Nam mô tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai, Thập phương Chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam bảo. 1 lạy Chí tâm đảnh lễ Nam mô Ta Bà Giáo Chủ iều Ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, ương Lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, ại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, ại Hạnh Phổ Hiền Vương Bồ tát, Hộ pháp chư tôn Bồ tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ tát. 1 lạy Chí tâm đảnh lễ Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới ại Từ ại Bi A Di à Phật, ại Bi Quán Thế Âm Bồ tát, ại Thế Chí Bồ Tát, ại Nguyện ịa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh ại Hải Chúng Bồ Tát. 1lạy ứng hoặc ngồi, vô chuông mõ và đồng tụng Tán Lư Hương Kim lư vừa bén chiên đàn, Khắp xông Pháp giới đạo tràng mười phương. Hiện thành mây báu kiết tường, Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiền. Pháp thân toàn thể hiện tiền, Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho. Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát. 3 lần Chú ại Bi Nam mô ại Bi Hội Thượng Phật Bồ tát 3 lần Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề Tát đỏa bà da. Ma ha Tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt dạt đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha Bồ đề Tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá rị. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ Bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Sa bà ha. Tất đà dạ. Sa bà ha. Ma ha tất đà dạ. Sa bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì. Sa bà ha. Ma ra na ra. Sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư da. Sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ. Sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ. Sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ. Sa bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ. Sa bà ha. Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ. Sa bà ha. Án tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt đà da. Sa bà ha. Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật 3 lần Khai Kinh Kệ Vọi vọi không trên pháp thẩm sâu, Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Con nay nghe đặng chuyên trì niệm Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu. Nam mô ại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát 3 lần Phật Nói Kinh Vu Lan Bồn Ta Từng Nghe Lời Tạc Như Vầy Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ Viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân Công dưỡng dục thâm ân dốc trả Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền Làm con hiếu hạnh vi tiên Bèn dùng huệ nhãn dưới trên kiếm tầm Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỷ Không uống ăn tiều tụy hình hài Mục Liên thấy vậy bi ai Biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm Lo phẩm vật đem dâng từ mẫu ặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu Thấy cơm mẹ rất lo âu Tay tả che đậy hữu hầu bốc ăn Lòng bỏn sẻn tiền căn chưa dứt Sợ chúng ma cướp giựt của bà Cơm chưa đưa đến miệng đà Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu Thấy như vậy âu sầu thê thảm Mục Kiền Liên bi cảm xót thương Mau mau về chốn giảng đường Bạch cùng Sư phụ tầm phương giải nàn Phật mới bảo rõ ràng căn cội Rằng mẹ ông gốc tội rất râu Dầu ông thần lực nhiệm mầu Một mình không thể ai cầu đặng đâu Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn Tiếng vang đồn thấu đến cửu thiên Cùng là các bậc thần kỳ Tà ma ngoại đạo, bốn vì Thiên Vương Cộng ba cõi sáu phương tu tập Cũng không phương cứu tế mẹ ngươi Muốn cho cứu được mạng người Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng Pháp cứu tế ta toan giảng nói Cho mọi người thoát khỏi ách nàn Bèn kiêu Mục thị đến gần Truyền cho diệu Pháp ân cần thiết thi Rằm tháng bảy là ngày tự tứ Mười phương Tăng đều dự lễ này Phải toan sắm sửa chớ chầy Thức ăn trăm món, trái cây năm màu Lại phải sắm gường nằm nệm lót Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu Món ăn tinh sạch báu mầu ựng trong bình bát vọng cầu kính dâng Chư ại ức mười phương thọ thực Trong bảy đời sẽ đặng siêu thăng Lại thêm cha mẹ hiện tiền ặng nhờ phước đức tiêu khiên ách nàn Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ Dầu ở đâu cũng tựu hội về Như người thiền định sơn khê Tránh điều phiền não chăm về thiền na Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả Công tu hành nguyện thỏa vô sanh Hoặc người thọ hạ kinh hành Chẳng ham quyền quý ẩn danh lâm tòng Hoặc người đặng lục thông tấn phát Và những hàng Duyên giác Thinh văn Hoặc chư Bồ tát mười phương Hiện hình làm Sãi ở gần chúng sanh ều trì giới rất thanh rất tịnh ạo đức dày chánh định chơn tâm Tất cả các bậc Thánh phàm ồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hòa Người nào có sắm ra vật thực ặng cúng dường Tự Tứ Tăng thời Hiện tiền phụ mẫu của người Bà con quyến thuộc thảy đều nhờ ơn Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên Như còn cha mẹ hiện tiền Nhờ đó cũng đặng bá thiên thọ trường Như cha mẹ bảy đời quá vãng Sẽ hóa thân về cõi thiên cung Người thì tuấn tú hình dung Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu thân Phật dạy bảo mười phương Tăng chúng Phải tuân theo thể thức sau này Trước khi thọ thực đàn chay Phải cầu chú nguyện cho người tín gia Cầu thất thế mẹ cha thí chủ ịnh tâm thần quán đủ đừng quên Cho xong định ý hành thiền Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dâng Khi thọ dụng, nên an vật thực Trước Phật đài hoặc tự tháp trung Chư Tăng chú nguyện viên dung Sau rồi tự tiện thọ dùng bữa trưa Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt Mục Liên cùng Bồ tát chư Tăng ồng nhau tỏ dạ vui mừng Mục Liên cũng hết khóc than sầu buồn Mục Liên mẫu cũng trong ngày ấy Kiếp khổ về ngạ quỷ được tan Mục Liên bạch với Phật rằng Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng khỏi nàn Lại cũng nhờ oai thần Tam bảo Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra Như sau đệ tử xuất gia Vu Lan Bồn pháp dùng mà độ sanh ộ cha mẹ còn đương tại thế Hoặc bảy đời có thể đặng không Phật rằng lời hỏi rất thông Ta vừa muốn nói con vùng hỏi theo Thiện nam tử, Tỳ Kheo nam nữ Cùng quốc Vương, Thái tử, ại thần Tam công, Tể tướng, bá quan Cùng hàng lê thứ vạn dân cõi trần Như chí muốn đền ơn cha mẹ Hiện tại cùng thất thê tình thâm ến rằm tháng bảy mỗi năm Sau khi kiết hạ chư Tăng tựu về Chính ngày ấy Phật à hoan hỷ Phải sắm sanh bá vị cơm canh ựng trong bình bát tinh anh Chờ giờ Tự Tứ chúng Tăng cúng dường ặng cầu nguyện song đường trường thọ Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi Cùng cầu thất thế đồng thì Lìa nơi ngạ quỷ sanh về nhơn thiên ặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp Lại xa lìa nạn khổ cực thân Môn sanh Phật tử ân cần Hạnh tu hiếu thuận phải cần phải chuyên Thường cầu nguyện thung huyên an hảo Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sanh Ngày rằm tháng bảy mỗi năm Vì lòng hiếu thảo ân thâm phải đền Lễ cứu tế chí thành sắp đặt Ngõ cúng dường chư Phật, chư Tăng Ấy là báo đáp thù ân Sanh thành dưỡng dục song thân buổi đầu ệ tử Phật lo âu gìn giữ Mới phải là Thích tử Thiền môn Vừa nghe dứt Pháp Lan Bồn Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan Mục Liên với bốn ban Phật tử Nguyện một lòng tín sự phụng hành Trước là trả nghĩa sanh thành Sau là cứu vớt chúng sanh muôn loài. Nam mô ại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát 3 lần Phật Thuyết Kinh Báo áp Công Ơn Cha Mẹ Diễn Nghĩa Ta Từng Nghe Lời Tạc Như Vầy Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ Thành Kỳ Thụ Viên trung Chư Tăng câu hội rất đông Tính ra đến số hai muôn tám ngàn. Lại cũng có các hàng Bồ tát Hội tại đây đủ mặt thường thường Bấy giờ Phật lại lên đường Cùng hàng đại chúng nam phương tiến hành. áo bán lộ đành rành mắt thấy Núi xương khô bỏ đấy lâu đời Thế Tôn bèn vội đến nơi Lạy liền ba lạy, rồi rơi giọt hồng. ức A Nan trong lòng ái ngại Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương Vội vàng xin Phật dạy tường “…Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài Ai ai cũng kính Thầy dường ấy Cớ sao Thầy lại lạy xương khô? Phật rằng trong các môn đồ Người là đệ tử đứng đầu dày công. Bởi chưa biết đục trong chưa rõ Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu, ống xương dồn dập bấy lâu Cho nên trong đó biết bao cốt hài. Chắc cũng có ông bà cha mẹ Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh, Luân hồi sanh tử, tử sanh Lục thân đời trước, thi hài còn đây. Ta lễ bái kỉnh người tiền bối Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa. ống xương hỗn tạp chẳng vừa Không phân trai gái bỏ bừa khó coi. Ngươi chụi khó xét soi cho kỹ Phân làm hai, bên nữ bên nam. ể cho phân biệt cốt phàm Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng. ức A Nan trong lòng tha thiết Biết làm sao phân biệt khỏi sai. Ngài bèn xin Phật tỏ bày Vì khó chọn lựa gái trai lúc này. Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt Cách đứng đi ăn mặc phân minh, Chớ khi rã xác tiêu hình Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân. Phật mới bảo A Nan nên biết Xương nữ nam phân biệt rõ ràng àn ông xương trắng nặng quằn àn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn. Người có biết cớ sao đen nhẹ Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra, Sanh con ba đấu huyết ra Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con. Vì cớ ấy hao mòn thân thể Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai. A Nan nghe vậy bi ai Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh. Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo Phương pháp nào báo hiếu song thân. Thế Tôn mới bảo lời rằng Vì ngươi ta sẽ phân trần khá nghe Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc Sanh đặng con thập ngoạt cưu mang. Tháng đầu, thai đậu tợ sương Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường Tháng thứ nhì dường như sữa đặc Tháng thứ ba như cục huyết ngưng Bốn tháng đã tượng ra hình Năm tháng ngũ thể 1 hiện sanh rõ ràng Tháng thứ sáu lục căn 2 đều đủ Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương Lại thêm đủ lỗ chân lông Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ Chín tháng thì đầy đủ vóc hình Mười tháng là đến kỳ sanh Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu Nó vẫy vùng đạp quấu lung tung Làm cho cha mẹ hãi hùng Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân Khi sanh đặng muôn phần khoái lạc Cũng ví như được bạc được vàng Thế Tôn lại bảo A Nan Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin iều thứ nhất giữ gìn thai giáo Mười tháng trường chu đáo mọi bề Thứ hai sanh đẻ gớm ghê Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần iều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng Cực đến đâu bền vững chẳng lay Thứ tư ăn đắng nuốt cay ể dành bùi ngọt đủ đầy cho con iều thứ năm lại còn khi ngủ Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con Thứ sáu, sú nước nhai cơm Miễn con no ấm chẳng nhờm gớm ghê iều thứ bảy không chê ô uế Giặt đồ dơ của trẻ không phiền Thứ tám chẳng nỡ chia riêng Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo iều thứ chín miễn con sung sướng Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam Tính sao có lợi thì làm Chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm iều thứ mười chẳng ham chau chuốt Dành cho con các cuộc thanh nhàn Thương con như ngọc như vàng Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn Phật lại bảo A Nan nên biết Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người Mười phần mê muội cả mười Không tường ơn trọng đức dày song thân Chẳng kính mến, quên ơn, trái đức Không xót thương dưỡng dục cù lao Ấy là bất hiếu mặc giao Thì những người ấy đời nào nên thân Mẹ sanh con cưu mang mười tháng Cực khổ dường gánh nặng trên vai Uống ăn chẳng đặng vì thai Cho nên thân thể hình hài kém suy Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề Ví như thọc huyết trâu dê Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan Con còn nhỏ phải năng chăm sóc Ăn đắng cay bùi ngọt phần con Phải tắm, phải giặt, rửa trôn Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì Nằm phía ướt con thì phía ráo Sợ cho con ướt áo, ướt chăn Hoặc khi ghẻ chóc đầy mình Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương Trọn ba năm bú nương sữa mẹ Thân gầy mòn nào nệ với con ến khi vừa được lớn khôn Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng Cho đi học mở thông trí tuệ Dựng vợ chồng có thể làm ăn Ước mong con được nên thân Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi Con đau ốm tức thì lo chạy Dầu tốn hao cách mấy cũng đành Khi con căn bệnh đặng lành Thì cha mẹ mới an tâm định thần Công dưỡng dục sánh bằng non biển Cớ sao con chẳng biết ơn này Hoặc khi lầm lỗi bị rầy Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang Hỗn cha mẹ phùng mang trợn mắt Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi Bà con chẳng kể ra chi Không tuân Sư phụ lễ nghi chẳng tường Lời dạy bảo song đường không kể Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng Trái ngang chóng báng mọi đàng Ra vào lui tới mắng càn người trên Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn Lớn lên theo lối hung hăng ã không nhẫn nhịn lại càng hành hung Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ Nết tập quen làm sự trái ngang Nghe lời dụ dỗ quân hoang Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người Trước còn tập theo thời theo thế Thân lập thân tìm kế sanh nhai Hoặc đi buôn bán kiếm lời Hoặc vào quân lính với đời lập công Vì ràng buộc đồng công mối nợ Hoặc trở ngăn vì vợ vì con Quên cha quên mẹ tình thâm Quên xứ quên sở lâu năm không về Ấy là nói những người có chí Chớ phần nhiều du hý mà thôi Sau khi phá hết của rồi Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài Theo trộm cướp hoặc là bài bạc Phạm tội hình, tù ngục phải vương Hoặc khi mang bệnh giữa đường Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng Hay tin dữ, bà con cô bác Cùng cha mẹ xao xác buồn rầu Thương con than khóc ưu sầu Có khi mang bệnh đui mù vấn vương Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn Hoặc nghe con chẳng lo lường Trà đình tửu điếm phố phường ngao du Cứ mài miệt với đồ bất chánh Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang Làm cho cha mẹ than van Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều Ốm đau đói rách kêu rêu Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương Phận con gái còn nương cha mẹ Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa Cần lao phục dịch trong nhà Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi Song đến lúc tùng phu xuất giá Lo bên chồng chẳng xá bên mình Trước còn lai vãng viếng thăm Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà Quên dưỡng dục song thân ơn trọng Không nhớ công mang nặng đẻ đau Chẳng lo báo bổ cù lao Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay Nếu cha mẹ rầy la quở mắng Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng Chớ chi chồng đánh liên miên Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ Nói không cùng nghiệp dữ phải mang Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi ập vào mình, vào mũi vào hông Làm cho các lỗ chân lông Thảy điều ruớm máu ướt đầm cả thân ến hôn mê tâm thần bất định Một giây lâu mới tỉnh than rằng Bọn ta quả thiệt tội nhơn Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc Ruột gan dường như nát như tan Tội tình khó nỗi than van Làm sao trả đặng muôn ngàn ơn sâu Trước Phật tiền ai cầu trần tố Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân Làm sao báo đáp thù ân Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình Phật bèn dụng phạm thinh sáu món Phân rõ cùng ại chúng lóng nghe Ơn cha nghĩa mẹ nặng nề Không phương báo đáp cho vừa sức đâu Ví có người ơn sâu dốc trả Cõng mẹ cha tất cả hai vai Giáp vòng hòn núi Tu di ến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền Ví có người gặp cơn đói rét Nuôi song thân dâng hết thân này Xương nghiền thịt nát phân thây Trải trăm ngàn kiếp ơn đây chưa đồng Ví có người vì công sanh dưỡng Tự tay mình khoét thủng song ngươi Chịu thân mù tối như vầy ến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu Ví có người cầm dao thật bén Mổ bụng ra, rút hết tâm can Huyết ra khắp đất chẳng than ến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng Ví có người dùng ngàn mũi nhọn âm vào mình bất luận chỗ nào Tuy là sự khó biết bao Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền Ví có người vì ơn dưỡng dục Tự treo mình cúng Phật thế đèn Cứ treo như vậy trọn năm Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền Ví có người xương nghiền ra mỡ Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình Xương tan thịt nát chẳng phiền ến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng Ví có người vì công dưỡng dục Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan Làm cho thân thể tiêu tan ến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền Nghe Phật nói thảy đều kinh hãi Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn ồng thinh bạch Phật lời rằng Làm sao trả đặng thâm ân song đường? Phật mới bảo các hàng Phật tử Phải lóng nghe ta chỉ sau này Các ngươi muốn đáp ơn dày Phải toan biên chép kinh đây lưu truyền Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng Cùng ăn năn những tội lỗi xưa Cúng dường Tam bảo sớm trưa Cùng là tu phước chẳng chừa món chi Rằm tháng bảy đến kỳ Tự Tứ Thập phương Tăng đều dự lễ này Sắm sanh lễ vật đủ đầy Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng ặng cầu nguyện song đường trường thọ Hoặc sanh về Tịnh độ an nhàn Ấy là báo đáp thù ân Sanh thành dưỡng dục song thân của mình Mình còn phải cần chuyên trì giới Pháp tam quy, ngũ giới giữ gìn Những lời ta dạy đinh ninh Khá tua y thử phụng hành đừng sai ược như vậy mới là khỏi tội Bằng chẳng thì ngục tối phải sa Trong năm đại tội kể ra Bất hiếu thứ nhất, thật là trọng thay Sau khi chết bị đầy vào ngục Ngũ vô gián, cũng gọi A Tỳ Ngục này trong núi Thiết vi Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề Trong ngục này hàng ngày lửa cháy ốt tội nhân hết thảy thành than Có lò nấu sắt cho tan Rót vào trong miệng tội nhân hành hình Một vá đủ cho người thọ khổ Lột thịt da đau thấu tâm can Lại có chó sắt, rắn gang Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn Ở trong ngục có giường bằng sắt Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong Rồi cho một ngọn lửa hồng Nướng quay chúng nó da phòng thịt thau Móc bằng sắt, thương đao gươm giáo Trên không trung đổ tháo như mưa Gặp ai chém nấy chẳng chừa Làm cho thân thể nát nhừ như tương Những hình phạt vô phương kể hết Mỗi ngục đều có cách trị riêng Như là xe sắt phân thây Chim ưng mổ mắt trâu cày lưỡi le Chớ chi đặng chết liền rất đỡ Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân Ngày đêm chết sống muôn lần ến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây Sự hành phạt tại A tỳ ngục Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân Chúng ngươi đều phải ân cần Thừa hành các việc phân trần khoảng trên Nhứt là phải kinh này in chép Truyền bá ra cho khắp đông tây Như ai chép một quyển này Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên Do theo nguyện lực tùy duyên Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền Cha mẹ đặng xa miền khóc lãnh Lại hóa sanh về cảnh thiên cung Khi lời Phật giảng vừa xong Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng Lại phát nguyện thà thân này nát Ra bụi tro, muôn kiếp chẳng nài Dầu cho lưỡi kéo trâu cày ến trăm ngàn kiếp lời Thầy không quên Ví như bị bá thiên đao kiếm Khắp thân này đâm chém phân thây Hoặc như lưới trói thân này Trải trăm ngàn kiếp lời Thầy chẳng sai Dầu thân này bị cưa bị chặt Phân chia ra muôn đoạn rã rời ến trăm ngàn kiếp như vầy Chúng con cũng chẳng trái lời Thầy khuyên ức A Nan kiền thiền đảnh lễ Cầu Thế Tôn đặt để hiệu Kinh Ngày sau truyền bá chúng sanh Dễ bề phúng tụng, trì chuyên tu hành Phật mới bảo A Nan nên biết Quyển kinh này quả thiệt cao xa ặt tên “Báo Hiếu Mẹ Cha” Cùng là “Ân Trọng” thiệt là chơn kinh Các ngươi phải giữ gìn châu đáo ặng đời sau y giáo phụng hành Sau khi Phật dạy rành rành Bốn ban Phật tử rất mừng rất vui Thảy một lòng vâng theo lời Phật Và kính thành tin chắc vẹn truyền ồng nhau tựu tại Phật tiền Nhất tâm đãnh lễ rồi liền lui ra. Tâm Kinh Tâm trí tuệ thinh thinh rộng lớn Sáng trong ngần chẳng bợn mảy trần Làu làu một tánh thiên chân Bao trùm muôn loại chẳng phân thánh phàm Vận tâm ấy lặng trong sáng suốt Cõi bờ kia một bước đến nơi Trải lòng tròn đủ xưa nay Công thành quả chứng tỏ bày đích đang Hàng Bồ tát danh Quan tự tại Khi tham thiền vô ngại đến trong Thẩm vào trí huệ mở thông Soi thấy năm uẩn đều không có gì ộ tất cả không chi khổ ách Trong thức tâm hiện cảnh sắc ra Sắc, không chung ở một nhà Không chẳng khác sắc, sắc nào khác không Ấy sắc tướng cũng đồng không tướng Không tướng y như tượng sắc kia Thọ tưởng hành thức phân chia Cũng lại như vậy, tổng về chân không Tòa sắc tướng nhơn ông tạm đó Các pháp kia tướng nọ luống trơn Chẳng sanh chẳng dứt thường chơn Chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng sờn, chẳng thêm Cớ ấy nên cõi trên không giới Thể làu làu vô ngại thường chân Vốn không ngũ uẩn ấm thân Sáu căn chẳng có sáu trần cũng không Thấy rỗng không mà không nhãn giới Biết hoàn toàn thức giới cũng không Tánh không sáng suốt đại đồng Vô minh chẳng có mựa hồng hết chi Vận tâm ấy không gì già chết Huống chi là hết chết già sao Tứ đế cũng chẳng có nào Không chi là trí có nào đắc chi Do vô sở đắc ly tất cả Nhơn pháp kia đều xả nhị không Vận lòng trí huệ linh thông Bờ kia mau đến tâm không ngại gì Không quái ngại có chi khủng bố Tức xa lìa mộng tưởng đảo điên Tâm không rốt ráo chư duyên Niết bàn quả chứng chơn nguyên hoàn toàn Tam thế Phật, y đàng Bát nhã áo Bồ ề chứng quả chánh nhơn Cho hay Bát nhã là hơn Pháp môn tối thắng cõi chơn mau về Thiệt thần chú linh tri đại lực Thiệt thần chú đúng mực quang minh Ấy chú tối thượng oai linh Ấy chú vô đẳng thinh thinh oai thần Trừ tất cả nguyên nhân các khổ Thức tỉnh lòng giác ngộ vô sư Thiên nhơn chơn thiệt bất hư Án lam thần chú chơn như thuyết rằng “Yết ế, Yết ế, Ba La Yết ế, Ba La Tăng Yết ế, Bồ ề Tát Bà Ha” 3 lần Vãng Sanh Thần Chú Nam mô A Di a bà dạ. a tha dà đa dạ, a điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ. A di rị đa, tỳ ca lan đế. A di rị đa, tỳ ca lan đa. Dà di nị, dà dà na. Chỉ đa ca lệ, ta bà ha. 3 lần Bài Tán Thán Phật A Di à Chúng Thích tử kiền thiền xưng tán ức Di à vô hạn lợi sanh Bốn mươi tám nguyện viên thành Hiện ra tướng tốt sắc thân tuyệt vời. Kim sắc tướng muôn ngàn công đức Khắp mười phương chẳng bực sánh bằng Bạch hào hiển hiện phóng quang Xoay vần chiếu sáng Vi San năm tòa. Cặp thanh nhãn thấy xa vô ngại Sáng trong ngần tứ đại hải dương Hào quang hóa Phật không lường Hóa chúng Bồ tát số đương hằng hà. ộ chúng sanh liên hoa chín phẩm Nước Lạc Bang là cảnh Tây phương Chí thành thập niệm chiêu chương Hiện tiền thánh chúng dẫn đường vãng sanh. Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới ại Từ ại Bi Tiếp Dẫn ạo Sư A Di à Phật. Nam mô A Di à Phật 108 lần Nam mô ại Bi Quán Thế Âm Bồ tát 3 lần Nam mô ại Thế Chí Bồ tát 3 lần Nam mô ịa Tạng Vương Bồ tát 3 lần Nam mô ại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát 3 lần Nam mô Thanh Tịnh ại Hải Chúng Bồ tát 3 lần Sám Vu Lan ệ tử chúng con Vâng lời Phật dạy Ngày rằm tháng bảy Gặp hội Vu Lan Phạm vũ huy hoàng ốt hương đảnh lễ Mười phương tam thế Phật, Pháp, Thánh Hiền Noi gương đức Mục Kiền Liên Nguyện làm con thảo Lòng càng áo não Nhớ nghĩa thân sanh Con đến trưởng thành Mẹ dày gian khổ Ba năm nhũ bộ Chín tháng cưu mang Không ngớt lo toan Quên ăn bỏ ngủ Ấm no đầy đủ Cậy có công cha Chẳng quản yếu già Sanh nhai lam lũ Quyết cùng hoàn vũ Phấn đấu nuôi con Giáo dục vuông tròn em đường học đạo ệ tử ơn sâu chưa báo Hổ phận kém hèn Giờ này quỳ trước đài sen Chí thành cung kính ạo tràng thanh tịnh Tăng bảo trang nghiêm Hoặc thừa Tự Tứ Hoặc hiện tham thiền ầy đủ thiện duyên Dũ lòng lân mẫn Hộ niệm cho Bảy kiếp cha mẹ chúng con ượm nhuần mưa pháp Còn tại thế Thân tâm yên ổn Phát nguyện tu trì ã qua đời Ác đạo xa lìa Chóng thành Phật quả Ngưỡng mong các ức Như Lai Khắp cõi hư không Từ bi gia hộ. Nam mô ại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát 3 lần Sám Mục Liên Con quỳ lạy Phật Thích Ca Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên Lòng con mộ đạo tu hiền Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay. Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày Minh tâm kiến tánh Như Lai trọn lành Lục thông đầy đủ nên danh Muốn tìm cha mẹ lòng thành gắng công. ền ơn cho bú ẵm bồng Liền dùng đạo nhãn xem liền thế gian Thấy vong mẹ khổ muôn vàn Ốm gầy đói khát trong đàng quỷ ma. Mục Liên kêu mẹ khóc la au lòng thương mẹ đọa sa Diêm đình Thanh ề nhìn thấy con mình Mục Liên cứu mẹ hết tình gắng công. Con ơi! Mẹ đói trong lòng Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than Vội vàng trở lại thế gian Bới cơm một bát đem sang mẹ mừng. Và cơm vô miệng nửa chừng Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than Mục Liên xem thấy kinh hoàng Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình. Mẹ ơi! niệm Phật độ mình Trở về lạy Phật cầu xin mẹ già Thích Ca đức Phật phân qua Mẹ ngươi tội nặng đọa ra nghiệp hành. Ta truyền cứu tế pháp lành Cần cầu tăng chúng tịnh thanh chú nguyền Cầu cho phụ mẫu hiện tiền Lục thân quyến thuộc bình yên đều hòa. Bảy đời phụ mẫu đã qua Về trời hưởng phước sáng lòa hào quang Vui chơi thông thả thanh nhàn Ngày rằm tháng bảy lập đàn trai Tăng. Sắm cơm trăm món đồ ăn Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng Chiếu, giường, bồn nước, mùng, màn Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm. Những đồ vật quý bông thơm Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh Cúng dường Tam bảo cầu kinh Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang. Cầu cho thí chủ trai đàn Tâm hành thiền định vái van chúc nguyền Thanh ề khổ ách hết liền Ngày Rằm tháng Bảy thành Tiên về Trời. Noi gương hiếu thảo đời đời Xót thương phụ mẫu hiện thời nuôi con Nhai cơm cho bú hao mòn Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng. Trời cao đất rộng mênh mông Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn Tu hành báo tứ trọng ân ộ đời ba cõi sạch trơn trọn lành. Mục Liên đại hiếu tu hành Báo ân phụ mẫu nên danh độ đời. Hồi Hướng Phúng kinh công đức thù thắng hạnh Vô biên thắng phước giai hồi hướng Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh Tốc vãng vô lượng quang Phật sát. Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ Thế thế thường hành Bồ tát đạo. Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh Bất thối Bồ tát vi bạn lữ. Nguyện dĩ thử công đức Phổ cập ư nhất thiết Ngã đẳng dữ chúng sanh Giai cộng thành Phật đạo. Tam Tự Quy Tự quy y Phật, Xin nguyện chúng sanh, Thể theo đạo cả, Phát lòng Vô thượng. 1 lạy Tự quy y Pháp, Xin nguyện chúng sanh, Thấu rõ kinh tạng Trí tuệ như biển. Tự quy y Tăng, Xin nguyện chúng sanh, Thống lý đại chúng Hết thảy không ngại. Hòa Nam Thánh Chúng Chú thích 1 Đầu, hai tay, hai chân 2 Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Hướng dẫn một số quy định khi cách tụng kinh Mục đích của việc tụng Kinh Vu Lan đó chính là để chúng ta hiểu được nghĩa lý đạo hiếu qua những lời Phật dạy. Do đó, khi tụng kinh chúng ta phải hết lòng thành kính phải chú tâm vào những lời Phật dạy và thực hiện theo đúng như quy định sau Trước khi tụng nên rửa tay, súc miệng cho sạch sẽ và y phục phải nghiêm trang. Kh ngồi hoặc đứng phải giữ thân cho đoan chính. Lúc lạy hay quỳ phải giữ thân đoan nghiêm. Thời gian tụng kinh thông thường vào hai thời gian cố định Buổi tối và khuya. Chúng tôi vừa giúp các bạn tìm hiểu một số nội dung của Kinh Vu Lan Báo Hiếu. Các bạn hãy thực hiện theo những lời Phật dạy có trong Kinh Vu Lan về đạo hiếu làm con để đền đáp công ơn dưỡng dục với cha mẹ ông bà mình. Bài kinh vu lan báo hiếu sau đây là bản đầy đủ nhất. Bài kinh vu lan báo hiếu là một bài kinh không thể thiếu trong lễ vu lan tháng 7 hàng năm. Kinh vu lan báo hiếu MP3 do thầy Thích Trí Thoát tụng Theo quan điểm của nhân tướng học, đàn ông mà sở hữu những nét tướng này thường bôn ba, vất vả, cả đời kiếm tiền chật vật. Cung Tài lộc có nốt ruồi hoặc bớt Theo nhân tướng học, Cung Tài lộc nằm ở vị trí trán hướng thẳng về phía sống mũi, trên vùng lông mày. Đàn ông sở hữu hữu cung Tài Lộc có một cái bớt đen hoặc nốt ruồi sẽ phá huỷ vận may của người đó. Dù tài ba đến mấy, siêng năng chăm chỉ làm ăn ra sao, người đàn ông cũng không thể khấm khá. Đây là một trong những nét tướng mặt đàn ông nghèo hèn chị em nên cân nhắc khi lựa chọn vị hôn phu của đời mình. Lông mày hỗn loạn, đậm, đường lông mày không rõ ràng Người có lông mày như thế này lại có thêm cặp mắt hung dữ có số mệnh nghèo khó, không thể làm nên nghiệp lớn. Tuýp người này sở hữu tính cách nông nổi và bốc đồng, làm việc lúc nào cũng đơn thương độc mã, không cân nhắc hậu quả trước sau. Họ sẵn sàng vì lợi ích của bản thân mà phản bội, hãm hại bạn bè. Muốn làm nên cơ nghiệp là chuyện cực kì khó khăn bởi đây là nét tướng hại người hại cả thân. Mũi thấp, hếch lên Đàn ông sở hữu nét tướng này là nét tướng tiểu nhân, sống chi li, tính toán, do đó, cuộc sống nghèo khổ, cơ cực. Ngoài ra, tuýp người này tâm không chính, thường lợi dụng sự thông minh, láu cá của mình để lừa người khác. Vì thế, tiền tài, danh vọng khó đến được với những người này. Dái tai nhỏ Đàn ông sở hữu dái tai nhỏ thường hay lo lắng, muộn phiền, sợ hãi những điều sắp tới. Họ cũng thuộc tuýp người nhút nhát và thiếu dũng khí, chẳng dám làm điều gì liều lĩnh. Vì thế, công danh chẳng đáng kể, có kiếm được đồng tiền cũng phải bôn ba, lao tâm khổ tứ vất vả. Miệng mỏng, trễ Miệng quyết định khả năng diễn đạt của bản thân. Đàn ông miệng to nhưng môi lại mỏng thì dục vọng nhiều song lại thiếu lòng đồng cảm, hay nói lời cay nghiệt, phê phán người khác không thương tiếc ngay trước mặt, sau lưng lại thích buôn chuyện, bàn tán về chuyện riêng tư của người khác, không được ai quý mến. Thêm vào đó, nếu người này khóe miệng trễ xuống thì đó là tướng lộ tài, bao nhiêu phúc khí, tài khí đều theo đó mà trôi hết ra ngoài, khiến cho người này tài lộc ít ỏi, tiền bạc thiếu thốn. Xương mặt to, da mặt mỏng Đàn ông sở hữu xương mặt to, da mặt mỏng, khô là kẻ phá tán tiền của trong nhà, nghèo khổ, không sống lâu, cả đời vất vả cũng không giàu. Nếu khí sắc trên mặt mờ tối như than bụi có thể sẽ phải bỏ mạng nơi phương xa. Đôi mắt không cân đối, nhiều lòng trắng Đàn ông có nét tướng này thường không đáng tin cậy, tráo trở, lười nhác. Tướng đàn ông có mắt nhỏ ti hí này tính tình keo kiệt, đa nghi, số cơ cực bần hàn. Theo Khoevadep Xem link gốc Ẩn link gốc PHẬT THUYẾT KINH BÁO ĐÁP CÔNG ƠN CHA MẸ Diễn nghĩa Ta từng nghe lời tạc như vầy Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá vệ thành Kỳ thụ viên trung Chư Tăng câu hội rất đông Tính ra đến số hai muôn tám ngàn. Lại cũng có các hàng Bồ tát Hội tại đây đủ mặt thường thường Bấy giờ Phật lại lên đường Cùng hàng đại chúng Nam phương tiến hành. Đáo bán lộ đành rành mắt thấy Núi xương khô bỏ đấy lâu đời Thế Tôn bèn vội đến nơi Lạy liền ba lạy, rồi rơi giọt hồng. Đức A Nan trong lòng ái ngại Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương Vội vàng xin Phật dạy tường “...Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài Ai ai cũng kính Thầy dường ấy Cớ sao Thầy lại lạy xương khô?” Phật rằng Trong các môn đồ Người là Đệ tử đứng đầu dày công. Bởi chưa biết đục trong chưa rõ Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu, Đống xương dồn dập bấy lâu Cho nên trong đó biết bao cốt hài. Chắc cũng có Ông Bà Cha Mẹ Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh, Luân hồi sanh tử, tử sanh Lục thân đời trước, thi hài còn đây. Ta lễ bái kỉnh người tiền bối Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa. Đống xương hỗn tạp chẳng vừa Không phân trai gái bỏ bừa khó coi. Ngươi chịu khó xét soi cho kỹ Phân làm hai, bên nữ bên nam. Để cho phân biệt cốt phàm Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng. Đức A Nan trong lòng tha thiết Biết làm sao phân biệt khỏi sai. Ngài bèn xin Phật tỏ bày Vì khó chọn lựa gái trai lúc này. Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt Cách đứng đi ăn mặc phân minh, Chớ khi rã xác tiêu hình Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân. Phật mới bảo A Nan nên biết Xương nữ nam phân biệt rõ ràng Đàn ông xương trắng nặng quằn Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn. Người có biết cớ sao đen nhẹ Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra, Sanh con ba đấu huyết ra Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con. Vì cớ ấy hao mòn thân thể Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai. A Nan nghe vậy bi ai Xót thương Cha Mẹ công dày dưỡng sanh. Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo Phương pháp nào báo hiếu song thân. Thế Tôn mới bảo lời rằng Vì ngươi ta sẽ phân trần khá nghe Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc Sanh đặng con mười tháng cưu mang. Tháng đầu, thai đậu tợ sương Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường Tháng thứ nhì dường như sữa đặc Tháng thứ ba như cục huyết ngưng. Bốn tháng đã tượng ra hình Năm tháng ngũ thể hiện sanh rõ ràng Tháng thứ sáu lục căn đều đủ Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương. Lại thêm đủ lỗ chân lông Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ Chín tháng thì đầy đủ vóc hình. Mười tháng là đến kỳ sanh Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn Bằng ngỗ nghịch làm buồn Thân mẫu Nó vẫy vùng đạp quấu lung tung. Làm cho Cha Mẹ hãi hùng Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân Khi sanh đặng muôn phần khoái lạc Cũng ví như được bạc được vàng. Thế Tôn lại bảo A Nan Ơn Cha nghĩa Mẹ mười phần phải tin Điều thứ nhất giữ gìn thai giáo Mười tháng trường chu đáo mọi bề. Thứ hai sanh đẻ gớm ghê Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần Điều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng Cực đến đâu bền vững chẳng lay. Thứ tư ăn đắng nuốt cay Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con Điều thứ năm lại còn khi ngủ Ướt Mẹ nằm, khô ráo phần con. Thứ sáu, sú nước nhai cơm Miễn con no ấm chẳng nhờm gớm ghê Điều thứ bảy không chê ô uế Giặt đồ dơ của trẻ không phiền. Thứ tám chẳng nỡ chia riêng Nếu con đi vắng Cha phiền Mẹ lo Điều thứ chín miễn con sung sướng Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam. Tính sao có lợi thì làm Chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm Điều thứ mười chẳng ham chau chuốt Dành cho con các cuộc thanh nhàn. Thương con như ngọc như vàng Ơn Cha nghĩa Mẹ sánh bằng Thái sơn Phật lại bảo A Nan nên biết Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người. Mười phần mê muội cả mười Không tường ơn trọng đức dày song thân Chẳng kính mến, quên ơn, trái đức Không xót thương dưỡng dục cù lao. Ấy là bất hiếu mặc giao Thì những người ấy đời nào nên thân Mẹ sanh con cưu mang mười tháng Cực khổ dường gánh nặng trên vai. Uống ăn chẳng đặng vì thai Cho nên thân thể hình hài kém suy Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề. Ví như thọc huyết trâu dê Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan Con còn nhỏ phải năng chăm sóc Ăn đắng cay bùi ngọt phần con. Phải tắm, phải giặt, rửa trôn Biết rằng dơ dáy Mẹ không ngại gì Nằm phía ướt con thì phía ráo Sợ cho con ướt áo, ướt chăn. Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương Trọn ba năm bú nương sữa Mẹ Thân gầy mòn nào nệ với con. Đến khi vừa được lớn khôn Cha Mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng Cho đi học mở thông trí tuệ Dựng vợ chồng có thể làm ăn. Ước mong con được nên thân Dầu cho Cha Mẹ cơ bần quản chi Con đau ốm tức thì lo chạy Dầu tốn hao cách mấy cũng đành. Khi con căn bệnh đặng lành Thì Cha Mẹ mới an tâm định thần Công dưỡng dục sánh bằng non biển Cớ sao con chẳng biết ơn này. Hoặc khi lầm lỗi bị rầy Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang Hỗn Cha Mẹ phùng mang trợn mắt Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi. Bà con chẳng kể ra chi Không tuân Sư phụ lễ nghi chẳng tường Lời dạy bảo song đường không kể Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng. Trái ngang chống báng mọi đàng Ra vào lui tới mắng càn người trên Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn. Lớn lên theo lối hung hăng Đã không nhẫn nhịn lại càng hành hung Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ Nết tập quen làm sự trái ngang. Nghe lời dụ dỗ quân hoang Bỏ Cha bỏ Mẹ trốn sang quê người Trước còn tập theo thời theo thế Thân lập thân tìm kế sanh nhai. Hoặc đi buôn bán kiếm lời Hoặc vào quân lính với đời lập công Vì ràng buộc đồng công mối nợ Hoặc trở ngăn vì vợ vì con. Quên Cha quên Mẹ tình thâm Quên xứ quên sở lâu năm không về Ấy là nói những người có chí Chớ phần nhiều du hý mà thôi. Sau khi phá hết của rồi Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài Theo trộm cướp hoặc là bài bạc Phạm tội hình, tù ngục phải vương. Hoặc khi mang bệnh giữa đường Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng Hay tin dữ, bà con cô bác Cùng Mẹ Cha xao xác buồn rầu. Thương con than khóc ưu sầu Có khi mang bệnh đui mù vấn vương Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn. Hoặc nghe con chẳng lo lường Trà đình tửu điếm phố phường ngao du Cứ mài miệt với đồ bất chánh Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang. Làm cho Cha Mẹ than van Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời Hoặc Cha Mẹ đến hồi già yếu Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều. Ốm đau đói rách kêu rêu Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương Phận con gái còn nương Cha Mẹ Thì có lòng hiếu để thuận hòa. Cần lao phục dịch trong nhà Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi Song đến lúc tùng phu xuất giá Lo bên chồng chẳng sá bên mình. Trước còn lai vãng viếng thăm Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà Quên dưỡng dục song thân ơn trọng Không nhớ công mang nặng đẻ đau. Chẳng lo báo bổ cù lao Làm cho Cha Mẹ buồn rầu thảm thay Nếu Cha Mẹ rầy la quở mắng Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng. Chớ chi chồng đánh liên miên Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ Nói không cùng nghiệp dữ phải mang. Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng Trong hàng Đại chúng lòng càng thảm thay Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi Đập vào mình, vào mũi vào hông. Làm cho các lỗ chân lông Thảy điều rướm máu ướt đầm cả thân Đến hôn mê tâm thần bất định Một giây lâu mới tỉnh than rằng Bọn ta quả thiệt tội nhơn Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc Ruột gan dường như nát như tan. Tội tình khó nỗi than van Làm sao trả đặng muôn ngàn ơn sâu Trước Phật tiền ai cầu trần tố Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân. Làm sao báo đáp thù ân Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình Phật bèn dụng phạm thinh sáu món Phân rõ cùng Đại chúng lóng nghe Ơn Cha nghĩa Mẹ nặng nề Không phương báo đáp cho vừa sức đâu. Ví có người ơn sâu dốc trả Cõng Mẹ Cha tất cả hai vai Giáp vòng hòn núi Tu di Đến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền. Ví có người gặp cơn đói rét Nuôi song thân dâng hết thân này Xương nghiền thịt nát phân thây Trải trăm ngàn kiếp ơn đây chưa đồng Ví có người vì công sanh dưỡng Tự tay mình khoét thủng song ngươi Chịu thân mù tối như vầy Đến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu Ví có người cầm dao thật bén Mổ bụng ra, rút hết tâm can Huyết ra khắp đất chẳng than Đến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng Ví có người dùng ngàn mũi nhọn Đâm vào mình bất luận chỗ nào Tuy là sự khó biết bao Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền Ví có người vì ơn dưỡng dục Tự treo mình cúng Phật thế đèn Cứ treo như vậy trọn năm Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền Ví có người xương nghiền ra mỡ Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình Xương tan thịt nát chẳng phiền Đến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng. Ví có người vì công dưỡng dục Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan Làm cho thân thể tiêu tan Đến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền Nghe Phật nói thảy đều kinh hãi Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn Đồng thinh bạch Phật lời rằng Làm sao trả đặng thâm ân song đường ? Phật mới bảo các hàng Phật tử Phải lóng nghe ta chỉ sau này Các ngươi muốn đáp ơn dày Phải toan biên chép Kinh đây lưu truyền Vì Cha Mẹ trì chuyên phúng tụng Cùng ăn năn những tội lỗi xưa Cúng dường Tam Bảo sớm trưa Cùng là tu phước chẳng chừa món chi Rằm tháng Bảy đến kỳ tự tứ Mười phương Tăng đều dự lễ này Sắm sanh lễ vật đủ đầy Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng Đặng cầu nguyện song đường trường thọ. Hoặc sanh về Tịnh Độ an nhàn Ấy là báo đáp thù ân Sanh thành dưỡng dục song thân của mình. Mình còn phải cần chuyên trì giới Pháp Tam quy, Ngũ giới giữ gìn Những lời Ta dạy đinh ninh Khá nên y thử phụng hành đừng sai Được như vậy mới là khỏi tội Bằng chẳng thì ngục tối phải sa Trong năm đại tội kể ra Bất hiếu thứ nhất, thật là trọng thay Sau khi chết bị đày vào ngục Ngũ vô gián, cũng gọi A tỳ Ngục này trong núi Thiết vi Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề Trong ngục này hàng ngày lửa cháy Đốt tội nhân hết thảy thành than Có lò nấu sắt cho tan Rót vào trong miệng tội nhân hành hình Một vá đủ cho người thọ khổ Lột thịt da đau thấu tâm can Lại có chó sắt, rắn gang Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn Ở trong ngục có giường bằng sắt Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong Rồi cho một ngọn lửa hồng Nướng quay chúng nó da phòng thịt thau Móc bằng sắt, thương đao gươm giáo Trên không trung đổ tháo như mưa Gặp ai chém nấy chẳng chừa Làm cho thân thể nát nhừ như tương Những hình phạt vô phương kể hết Mỗi ngục đều có cách trị riêng Như là xe sắt phân thây Chim ưng mổ mắt trâu cày lưỡi lê Chớ chi đặng chết liền rất đỡ Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân Ngày đêm chết sống muôn lần Đến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây Sự hành phạt tại A tỳ ngục Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân Chúng ngươi đều phải ân cần Thừa hành các việc phân trần khoảng trên Nhứt là phải Kinh này in chép Truyền bá ra cho khắp đông tây Như ai chép một quyển này Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên Do theo nguyện lực tùy duyên Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền Cha Mẹ đặng xa miền khốc lãnh Lại hóa sanh về cảnh Thiên cung Khi lời Phật giảng vừa xong Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng Lại phát nguyện thà thân này nát Ra bụi tro, muôn kiếp chẳng nài Dầu cho lưỡi kéo trâu cày Đến trăm ngàn kiếp lời Thầy không quên Ví như bị bá thiên đao kiếm Khắp thân này đâm chém phân thây Hoặc như lưới trói thân này Trải trăm ngàn kiếp lời Thầy chẳng sai Dầu thân này bị cưa bị chặt Phân chia ra muôn đoạn rã rời Đến trăm ngàn kiếp như vầy Chúng con cũng chẳng trái lời Thầy khuyên Đức A Nan kiền thiền đảnh lễ Cầu Thế Tôn đặt để hiệu Kinh Ngày sau truyền bá chúng sanh Dễ bề phúng tụng, trì chuyên tu hành Phật mới bảo A Nan nên biết Quyển kinh này quả thiệt cao xa Đặt tên "Báo Hiếu Mẹ Cha" Cùng là "Ân Trọng" thiệt là chơn Kinh Các ngươi phải giữ gìn châu đáo Đặng đời sau y giáo phụng hành Sau khi Phật dạy rành rành Bốn ban Phật tử rất mừng rất vui Thảy một lòng vâng theo lời Phật Và kính thành tin chắc vẹn truyền Đồng nhau tựu tại Phật tiền Nhất tâm đảnh lễ rồi liền lui ra. - Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát. 3 lần TÂM KINH Tâm trí tuệ thinh thinh rộng lớn Sáng trong ngần chẳng bợn mảy trần Làu làu một tánh thiên chân Bao trùm muôn loại chẳng phân thánh phàm Vận tâm ấy lặng trong sáng suốt Cõi bờ kia một bước đến nơi Trải lòng tròn đủ xưa nay Công thành quả chứng tỏ bày đích đang Hàng Bồ tát danh Quan Tự Tại Khi tham thiền vô ngại đến trong Thẩm vào trí huệ mở thông Soi thấy năm uẩn đều không có gì Độ tất cả không chi khổ ách Trong thức tâm hiện cảnh sắc ra Sắc, không chung ở một nhà Không chẳng khác sắc, sắc nào khác không Ấy sắc tướng cũng đồng không tướng Không tướng y như tượng sắc kia Thọ tưởng hành thức phân chia Cũng lại như vậy, tổng về chân không Tòa sắc tướng nhơn ông tạm đó Các pháp kia tướng nọ luống trơn Chẳng sanh chẳng diệt thường chơn Chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng sờn, chẳng thêm Cớ ấy nên cõi trên không giới Thể làu làu vô ngại thường chân Vốn không năm uẩn ấm thân Sáu căn chẳng có sáu trần cũng không Thấy rỗng không mà không nhãn giới Biết hoàn toàn thức giới cũng không Tánh không sáng suốt đại đồng Vô minh chẳng có mựa hồng hết chi Vẫn không có thân gì già chết Huống chi là hết chết già sao Tứ đế cũng chẳng có nào Không chi là trí có nào đắc chi Do vô sở đắc ly tất cả Nhơn pháp kia đều xả nhị không Vận lòng trí huệ linh thông Bờ kia mau đến tâm không ngại gì Không quái ngại có chi khủng bố Tức xa lìa mộng tưởng đảo điên Tâm không rốt ráo chư duyên Niết Bàn quả chứng chơn nguyên hoàn toàn Tam thế Phật, y đàng Bát nhã Đáo Bồ đề chứng quả chánh nhơn Cho hay Bát nhã là hơn Pháp môn tối thắng cõi chơn mau về Thiệt thần chú linh tri đại lực Thiệt thần chú đúng mực quang minh Ấy chú tối thượng oai linh Ấy chú vô đẳng thinh thinh oai thần Trừ tất cả nguyên nhân các khổ Thức tỉnh lòng giác ngộ vô sư Thiên nhơn chơn thiệt bất hư Án lam thần chú chơn như thuyết rằng "Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha" 3 lần VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN Nam mô a di đa bà dạ. Đa tha dà đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ. A di rị đa, tỳ ca lan đế. A di rị đa, tỳ ca lan đa. Dà di nị, dà dà na. Chỉ đa ca lệ, ta bà ha. 3 lần BÀI TÁN THÁN PHẬT A DI ĐÀ Chúng Thích tử kiền thiền xưng tán Đức Di Đà vô hạn lợi sanh Bốn mươi tám nguyện viên thành Hiện ra tướng tốt sắc thân tuyệt vời. Kim sắc tướng muôn ngàn công đức Khắp mười phương chẳng bực sánh bằng Bạch hào hiển hiện phóng quang Xoay vần chiếu sáng vi san năm tòa. Cặp thanh nhãn thấy xa vô ngại Sáng trong ngần tứ đại hải dương Hào quang hóa Phật không lường Hóa chúng Bồ tát số đương hằng hà. Độ chúng sanh liên hoa chín phẩm Nước Lạc Bang là cảnh Tây Phương Chí thành thập niệm chiêu chương Hiện tiền thánh chúng dẫn đường vãng mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật. TTCT - Nhân tháng Vu lan báo hiếu, nhắc lại kiến thức của Phật về xương, về người mẹ và căn bệnh âm thầm có tên là loãng xương. Loãng xương là vấn đề đáng quan tâm vì bệnh liên quan đến nhiều hệ quả. Phóng to Sau độ tuổi 60, mật độ xương ở nữ giới thấp hơn nam đến 17% - Ảnh Lần đầu tiên tôi tiếp cận kiến thức của Phật về xương hình như là hơn 15 năm trước. Dạo đó, tôi chở bà nhạc đi chùa, và cũng tham gia với các phật tử khác tụng Kinh báo hiếu. Có lẽ hơi khác với các phật tử đang thả hồn vào lời kinh, tôi chú ý đến đoạn Đức Phật giảng về xương, mà theo kiến thức của y học hiện đại ngày nay là chính xác. Đức Phật lý giải về xương Theo Kinh báo hiếu, trong một chuyến đi hoằng pháp của Đức Phật, Ngài và đoàn tùy tùng đi ngang qua một đống xương khô cao như núi. Đức Phật quỳ xuống lạy đống xương. Vị tôn giả tên là A Nan ngạc nhiên hỏi sao Phật làm như thế, và Ngài giải thích rằng Ngài lạy ông, bà, cha, mẹ, hay nói chung là những bậc tiền nhân. Đức Phật bèn bảo A Nan nên sắp xếp đống xương cho thứ tự, nam nữ để riêng ra, chứ hỗn độn như thế thì rất không phải. Tôn giả A Nan hỏi làm sao biết xương nào của nam giới và xương nào của nữ giới. Đức Phật giải thích rằng việc phân biệt cũng không khó vì trọng lượng xương của nam cao hơn nữ. Ngài còn suy luận rằng sở dĩ trọng lượng xương của nữ thấp hơn nam là vì người nữ phải mang nặng đẻ đau, mất máu và mất sữa cho con bú. Nguyên văn những câu kinh liên quan là như sau Nhân ngày lễ Vu lan, đọc lại những lời Kinh báo hiếu để thấy sự thông tuệ của Đức Phật, và để nhắc nhở chúng ta về sự mang nặng đẻ đau và hi sinh của những bà mẹ. Nhìn nhận những sự thật này cũng là một cách để chúng ta hiểu rằng chính chúng ta - những người con - mang hình hài của mẹ là một phần của nguyên nhân dẫn đến loãng xương cho mẹ. Phật mới bảo A Nan nên biếtXương nữ nam phân biệt rõ ràngàn ông xương trắng nặng hoằngàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn. Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ?Bởi đàn bà sanh đẻ mà raSanh con ba đấu huyết raTám hộc, bốn đấu sữa hòa nuôi con. Nên nhớ rằng những suy luận này chẳng biết tôi dùng từ “suy luận” có đúng không nữa đã được phát biểu từ hơn năm trước. Ở thời điểm đó thì chắc chắn không có thiết bị y khoa để đo lường xương mà so sánh nặng hay nhẹ. Vậy chúng ta thử “kiểm định” xem những gì Đức Phật suy luận có đúng với thực tế hay không. Mật độ xương Ngày nay, với phương tiện vật lý như máy hấp thu hai tia năng lượng - dual energy X ray absorptiometry hay DXA, chúng ta có thể đo lường được lượng chất khoáng trong xương bone mineral content. Lượng này thường được tính bằng gam. Nhưng để so sánh hai nhóm một cách khách quan, chúng ta cần phải tính lượng chất khoáng trên diện tích xương hoặc thể tích xương. Diện tích vùng xương được đo thường được mô tả bằng centimet vuông cm2. Lấy lượng chất khoáng trong xương chia cho diện tích xương, chúng ta có chỉ số có tên là “bone mineral density” mật độ chất khoáng trong xương, nhưng quen gọi tắt là mật độ xương với đơn vị đo lường là gam/cm2. Những xương quan trọng thường là xương cột sống và xương đùi, vì đây là những nơi xương hay bị gãy. Gần đây, chúng tôi đã đo mật độ xương trên nam và nữ ở Kết quả cho thấy nữ có mật độ xương thấp hơn nam. Nhưng sự khác biệt còn tùy thuộc độ tuổi. Ở độ tuổi 20-30, tính trung bình, mật độ xương đùi ở nữ giới thấp hơn nam giới khoảng 5%. Nhưng sau độ tuổi 60, mật độ xương ở nữ giới thấp hơn nam đến 17%. So với độ tuổi 20-30, mật độ xương ở nữ tuổi 60 trở lên mất gần 40%. Như vậy, bằng tuệ giác của mình, Đức Phật đã suy đoán đúng rằng nữ có trọng lượng xương thấp hơn nam. Vai trò của estrogen Tại sao ở độ tuổi 60 trở lên nữ có mật độ xương thấp hơn nam? Có nhiều nguyên nhân cho sự suy giảm mật độ xương ở nữ. Một trong những lý giải được nhiều người chấp nhận nhất và có chứng cứ khoa học nhất là do suy giảm hormone giới tính estrogen. Estrogen là một hormone đóng vai trò rất quan trọng trong việc điều tiết quy trình chuyển hóa xương. Quy trình này rất phức tạp, với sự “tham gia” của hai nhóm tế bào tạo xương và hủy xương. Khi các tế bào tạo xương hoạt động tích cực hơn các tế bào hủy xương, chất khoáng trong xương được tạo ra; ngược lại, khi các tế bào hủy xương hoạt động tích cực hơn tế bào tạo xương thì chất khoáng trong xương bị suy giảm. Nồng độ estrogen trong cơ thể có chức năng ức chế các tế bào hủy xương bằng cách ngăn chặn một enzyme có tên là caspase-3. Do đó, ở nữ giới, người có nồng độ estrogen cao thường là những người có mật độ xương tốt. Có ba loại estrogen chính là estradiol, estrone và estriol. Nhưng estradiol có ý nghĩa lâm sàng hơn hai loại kia. Ở nữ, estradiol chủ yếu được sản sinh từ buồng trứng; ở nam, estradiol được chuyển hóa từ testosterone chú ý rằng testosterone là hormone nam tính. Do đó, nồng độ estrogen có thể đo từ máu, và từ kết quả xét nghiệm có thể biết được một cá nhân thiếu hay đủ estrogen. Nồng độ estradiol trong máu ở nam và nữ có xu hướng biến chuyển rất khác nhau. Ở nam, nồng độ estradiol chỉ dao động trong khoảng 20 pg/mL và hầu như không suy giảm theo độ tuổi. Tuy nhiên, ở nữ Việt Nam, nồng độ estradiol trong độ tuổi xuân thì khoảng 90 pg/mL, nhưng đến tuổi sau mãn kinh tức sau 50 tuổi thì giảm xuống chỉ còn 12 pg/mL, đến tuổi 60 trở lên chỉ còn 7,5 pg/mL. Sự suy giảm estradiol ở nữ giới sau thời kỳ mãn kinh hay sau độ tuổi sinh sản cũng có nghĩa là sự trỗi dậy của các tế bào hủy xương, dẫn đến sự suy giảm mật độ xương ở nữ giới. Ngoài estrogen, còn có vài yếu tố khác liên quan đến quá trình sinh sản cũng làm cho xương của phụ nữ suy giảm. Sự suy giảm xương của người mẹ xảy ra ngay trong thời gian mang thai. Trong thời gian này, nhất là ba tháng đầu thai kỳ, bào thai cần calcium để phát triển bộ xương, và nguồn calcium phải đến từ người mẹ. Mặc dù trong thời gian mang thai, nồng độ estradiol tăng cao nhưng mật độ xương của người mẹ vẫn bị suy giảm, một phần là do chuyển calcium từ mẹ sang con. Trong thời gian bà mẹ cho con bú sữa mẹ mật độ xương cũng suy giảm. Một số nghiên cứu trên những bà mẹ ở nước ngoài cho thấy trong thời kỳ này, mật độ xương của người mẹ giảm khoảng 3-9%, đặc biệt là xương cột sống và xương đùi. Cho con bú sữa mẹ cũng có nghĩa là chia sẻ calcium một chất khoáng quan trọng trong xương cho đứa con. Tuy nhiên, sau đó mật độ xương có vẻ “khôi phục” bình thường lại. Do đó, thường thường không phải tất cả những bà mẹ có nhiều con cũng là những người có mật độ xương suy giảm. Điểm qua những sự thật trên, chúng ta thấy nữ giới có mật độ xương thấp hay nói theo ngôn ngữ của Phật là trọng lượng xương thấp hơn nam là do ba yếu tố chính suy giảm estradiol trong máu, chuyển calcium cho bào thai trong lúc mang thai, và chuyển calcium cho con sau khi sinh con. Như vậy, suy luận của Đức Phật về sự mất máu và sinh sản dẫn đến suy giảm trọng lượng xương ở nữ cũng hoàn toàn đúng. Hệ quả giảm mật độ xương Suy giảm mật độ xương có ý nghĩa quan trọng đến sức khỏe của xương. Mật độ xương càng thấp, nguy cơ bị gãy xương càng cao. Do đó, mật độ xương đo bằng máy DXA được dùng để chẩn đoán loãng xương. Mật độ xương ở những người trên 50 tuổi được so sánh với mật độ xương lúc 20-30 tuổi, và thể hiện bằng một chỉ số có tên là “chỉ số T” thuật ngữ tiếng Anh là T-score. Trong thực tế, chỉ số T được tính toán bằng cách lấy mật độ xương của một cá nhân trừ cho mật độ xương lúc 20-30 tuổi và chia kết quả cho độ lệch chuẩn. Khi chỉ số T của một cá nhân trên 50 tuổi bằng hoặc thấp hơn thì được chẩn đoán là “loãng xương”. Dùng tiêu chuẩn chẩn đoán trên, chúng tôi có thể đánh giá quy mô loãng xương ở Việt Nam. Theo nghiên cứu của chúng tôi tại và Hà Nội, ở những người trên 50 tuổi, cứ 10 người nữ thì khoảng 3 người bị loãng xương; ở nam, cứ 10 người thì 1 người bị loãng xương. Dùng số liệu dân số của Việt Nam năm 2010, chúng tôi ước tính hiện nay có khoảng 2 triệu nữ và nửa triệu nam trên 50 tuổi đang trong tình trạng loãng xương. Những người loãng xương có nguy cơ bị gãy xương tăng gấp 2-3 lần so với người có mật độ xương bình thường. Gãy xương, nhất là gãy cổ xương đùi, là một biến cố quan trọng trong một đời người. Bị gãy xương một lần làm tăng nguy cơ gãy xương lần thứ hai, và nguy cơ tử vong. Khoảng 15-20% bệnh nhân gãy cổ xương đùi tử vong trong vòng 12 tháng. Ở nữ, nguy cơ gãy cổ xương đùi tương đương với nguy cơ ung thư vú. Rất ít người biết rằng nguy cơ tử vong vì gãy cổ xương đùi cũng bằng hoặc cao hơn nguy cơ tử vong vì ung thư vú. Hiện nay, có một số thuốc có thể sử dụng để điều trị loãng xương, giảm nguy cơ gãy xương, và một vài thuốc còn giảm nguy cơ tử vong vì gãy xương. Nói tóm lại, loãng xương ở nữ giới cao hơn nam giới, do mật độ xương ở nữ thấp hơn nam. Loãng xương ở nữ giới là một hệ quả của suy giảm estrogen khi về già, chuyển giao calcium cho người con trong khi mang thai và sau khi sinh con. Những khía cạnh này đã được Đức Phật đề cập đến hơn năm trước! ____________ Số liệu trong bài này có thể tham khảo từ hai công trình chính sau đây 1 Hồ Phạm Thục Lan và đồng nghiệp, “Reference ranges for bone mineral density and prevalence of osteoporosis in Vietnamese men and women” công bố trên tập san BMC Musculoskeletal Disorders 2011. 2 Nguyễn Thị Thanh Hương, “Peak bone mineral density in Vietnamese women”, công bố trên tập san Archives of Osteoporosis 2009. Tags Loãng xươngHệ quảĐức PhậtEstrogenCăn bệnh âm thầm Trích Kinh Vu Lan và Báo Hiếu; Dịch giả HT. Thích Huệ Đăng; Nxb Tôn Giáo PHẬT NÓI KINH BÁO ĐÁP ĐỀN CÔNG ƠN CHA MẸ DIỄN NGHĨA Ta từng nghe lời tạc như vầy Một thuở nọ Thế Tôn an trụ, Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung, Chư Tăng câu hội rất đông, Tính ra đến số hai muôn tám ngàn Lại cũng có các hàng Bồ Tát, Hội tại đây đủ mặt thường thường, Bấy giờ, Phật lại lên đường, Cúng hàng đại chúng Nam phương tiến hành. Đáo bán lộ đành rành mắt thấy, Núi xương khô bỏ đấy lâu đời, Thế Tôn bèn vội đến nơi, Lạy liền ba lạy, rồi rơi giọt hồng. Đức A Nan trong lòng ái ngại, Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương, Vội vàng xin Phật dạy tường “…Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài. Ai ai cúng kính Thầy dường ấy, Cớ sao Thầy lại lạy xương khô?” Phật rằng trong các môn đồ, Ngươi là đệ tử đứng đầu dày công. Bởi chưa biết đục trong chưa rõ, Nên vì ngươi Ta tỏ đuôi đầu Đống xương dồn dập bấy lâu, Cho nên trong đó biết bao cốt hài. Chắc cũng có ông bà cha mẹ, Hoặc thân ta, hoặc kẻ ta sanh, Luân hồi sanh tử, tử sanh, Lục thân đời trước, thi hài còn đây. Ta lễ bái kính người tiền bối, Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa. Đống xương hỗn tạp chẳng vừa, Không không trai gái bỏ bừa khó coi. Ngươi chịu khó xét soi cho kỹ, Phân làm hai bên nữ, bên nam, Để cho phân biệt cốt phàm, Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng. Đức A Nan trong lòng tha thiết, Biết làm sao phân biệt khỏi sai, Ngài bèn xin Phật chỉ bày, Vì khó chọn lựa gái trai lúc này. Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt, Cách đứng đi ăn mặc phân minh, Chớ khi rã xác tiêu hình, Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân. Phật mới bảo A Nan nên biết, Xương nữ nam phân biệt rõ ràng, Đàn ông xương trắng nặng quằn, Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn. Ngươi có biết cớ sao đen nhẹ? Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra, Sanh con ba đấu huyết ra, Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con. Vì cớ ấy hao mòn thân thể, Xương đàn bà, đen nhẹ hơn trai. A Nan nghe vậy bi ai, Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh. Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo, Phương pháp nào báo hiếu song thân? Thế Tôn mới bảo lời rằng Vì ngươi Ta sẽ phân trần khá nghe Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc, Sanh đặng con thập ngoạt cưu mang, Tháng đầu, thai đậu tợ sương, Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường. Tháng thứ nhì dường như sữa đặc. Tháng thứ ba như cục huyết ngưng. Bốn tháng đã tượng ra hình. Năm tháng ngũ thể 1 hiện sinh rõ ràng. Tháng thứ sáu lục căn 2 đều đủ, Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương, Lại thêm đủ lỗ chân lông, Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn. Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ. Chín tháng thì đầy đủ vóc hình. Mười tháng là đến kỳ sinh. Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn. Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu. Nó vẫy vùng đạp quấu lung tung, Làm cho cha mẹ hãi hùng, Sự đau, sự khổ không cùng tỏ phân. Sinh sanh đặn muôn phần khoái lạc, Cũng ví như được bạc được vàng. Thế Tôn lại bảo A Nan Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin. Điều thứ nhứt giữ gìn thai giáo, Mười tháng trường chu đáo mọi bề. Thứ hai sanh đẻ gớm ghê, Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần. Điều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng, Cực đến đâu, bền vững chẳng lay. Thứ tư ăn đắng nuốt cay, Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con Điều thứ năm lại còn khi ngủ, Ướt mẹ nằm khô ráo phần con. Thứ sáu sú nước nhai cơm, Miễn con no ấm chẳng nhờm, chẳng ghê. Điều thứ bảy không chê ô uế, Giặt đồ dơ của trẻ không phiền. Thứ tám chẳng nỡ chia riêng, Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo Điều thứ chín miễn con sung sướng, Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam, Tính sao có lợi thì làm, Chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm. Điều thứ mười chẳng ham trau chuốt, Dành cho con các cuộc thanh nhàn, Thương con như ngọc như vàng, Ơn cha nghĩa mẹ, sánh bằng Thái Sơn. Phật lại bảo A Nan nên biết Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người, Mười phần mê muội cả mười, Không tường ơn trọng đức dày song thân. Chẳng kính mến, quên ân, trái đức, Không xót thương dưỡng dục cù lao, Ấy là bất hiếu mặc giao, Thì những người ấy đời nào nên thân. Mẹ sanh con cưu mang mười tháng, Cực khổ dường gánh nặng trên vai, Uống ăn chẳng đặng vì thai. Cho nên thân thể hình hài kém suy. Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết, Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề, Ví như thọc huyết trâu dê, Nhứt sanh thập tử nhiều bề gian nan. Con còn nhỏ phải lo chăm sóc, Ăn đắng cay, bùi ngọt phần con, Phải tắm, phải giặt, rửa trôn, Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì. Nằm phía ướt, con nằm phía ráo, Sợ cho con ướt áo, ướt chăn, Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân, Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương. Trọn ba năm bú nương sữa mẹ, Thân gầy mòn nào nệ với con, Đến khi vừa được lớn khôn, Mẹ cha dạy bảo cho con vỡ lòng, Cho con đi học mở thông trí tuệ, Dựng vợ chồng có thể làm ăn, Ước mong con được nên thân, Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi. Con đau ốm tức thì lo chạy, Dầu tốn hao cách mấy cũng đành, Khi con căn bệnh đặng lành, Thì cha mẹ mới an thần định tâm. Công dưỡng dục sánh bằng non biển, Cớ sao con chẳng biết ơn này! Hoặc khi lầm lỗi bị rầy, Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang. Hỗn cha mẹ phùng mang trợn mắt, Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi, Bà con chẳng kể ra chi, Không tuân Sư Phụ lễ nghi chẳng tường. Lời dạy bảo song đường không kể, Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng. Trái ngang chốn báng mọi đàng, Ra vào lui tới mắng càng người trên. Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn, Lớn lên theo lối hung hăng, Đã không nhẫn nhịn lại càng hành hung. Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ, Nếu tập quen làm sự trái ngang, Nghe lời dụ dỗ quân hoang, Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người Trước còn tập theo thời theo thế, Thân lập thân tìm kế sinh nhai, Hoặc đi buôn bán kiếm lời, Hoặc vào quân lính với đời lập công. Vì ràng buộc đồng công, mối nợ, Hoặc trở ngăn vì vợ vì con, Quên cha quên mẹ tình thâm, Quên xứ quên sở lâu năm không về. Ấy là nói những người có chí, Chứ phần nhiều du hý mà thôi, Sau khi phá hết của rồi, Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài. Theo trộm cướp, hoặc là bài bạc, Phạm tội hình, tù ngục phải vương, Hoặc khi mang bệnh giữa đường, Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng. Hay tin dữ, bà con cô bác, Cùng mẹ cha xao xác buồn rầu, Thương con than khóc ưu sầu, Có khi mang bệnh đui mù vấn vương. Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ, Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn, Hoặc nghe con chẳng lo lường, Trà đình, tửu điếm, phố phường ngao du. Cứ mài miệt với đồ bất chánh, Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang, Làm cho cha mẹ than van, Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời. Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu, Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều, Ốm đau đói rách kêu rêu, Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương. Phận con gái còn nương cha mẹ, Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa, Cần lao phục dịch trong nhà, Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi. Song đến lúc tòng phu xuất giá, Lo bên chồng chẳng sá bên mình, Trước còn lai vãng viếng thăm, Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà. Quên dưỡng dục song thân ơn trọng, Không nhớ công mang nặng đẻ đau, Chăng lo báo bổ cù lao, Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay. Nếu cha mẹ rầy la quở mắng, Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng, Chớ chi chồng đánh liên miên, Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than. Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ, Nói không cùng nghiệp dữ phải mang, Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng, Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay! Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi, Đập vào mình, vào mũi, vào hông, Làm cho các lỗ chân lông, Thảy đều rướm máu, ướt đầm cả thân. Đến hôn mê tâm thần bất định, Một giây lâu mới tỉnh than rằng Bọn ta quả thiệt tội nhơn, Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù. Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc, Ruột gan dường như nát như tan, Tội tình khó nỗi than van, Làm sao trả đặng muôn ngàn ơn sâu. Trước Phật tiền ai cầu trần tố, Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân, Làm sao báo đáp thù ân, Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình. Phật bèn dụng Phạm thinh sáu món, Phân rõ cùng Đại chúng lắng nghe, Ơn cha nghĩa mẹ nặng nề, Không phương báo đáp cho vừa sức đâu. Ví có người ơn sâu dốc trả, Cõng cha mẹ tất cả hai vai. Giáp vòng hòn núi Tu Di, Đến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền. Ví có người gặp cơn đói rét, Nuôi song thân dâng hết thân này, Xương nghiền thịt nát phân thây, Trải trăm ngàn kiếp ơn đây chưa đồng. Ví có người vì công sanh dưỡng, Tự tay mình khoét thủng song ngươi, Chịu thân mù tối như vầy, Đến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu. Ví có người cầm dao thật bén, Mổ bụng ra, rút hết tâm can, Huyết ra khắp đất chẳng than, Đến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng. Ví có người dùng ngàn mũi nhọn, Đâm vào mình bất luận chỗ nào, Tuy là sự khó biết bao, Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền. Ví có người vì ơn dưỡng dục, Tự treo mình cúng Phật thế đèn, Cứ treo như vậy trọn năm, Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền. Ví có người xương nghiền ra mỡ, Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình, Xương tan thịt nát chẳng phiền, Đến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng. Ví có người vì công dưỡng dục, Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan, Làm cho thân thể tiêu tan, Đến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền. Nghe Phật nói thảy điều kinh hãi, Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn, Đồng thinh bạch Phật lời rằng Làm sao trả đặng ân thâm song đường! Phật mới bảo các hàng Phật tử, Phải lắng nghe Ta chỉ sau này, Các người muốn đáp ơn dày, Phải toan biên chép Kinh đây lưu truyền. Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng Cùng ăn năn nhũng tội lỗi xưa, Cúng dường Tam Bảo sớm trưa, Cùng là tu phước chẳng chừa món chi. Rằm tháng Bảy đến kỳ Tự Tứ, Thập phương Tăng đều dự lễ này, Sắm sanh lễ vật đủ đầy, Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng. Đặng cầu nguyện song đường trường thọ, Hoặc sanh về Tịnh độ an nhàn, ấy là báo đáp thù ân, Sanh thành dưỡng dục song thân của mình. Mình còn phải cần chuyên trì giới, Pháp Tam quy Ngũ giới giữ gìn, Những lời Ta dạy đinh ninh, Khá nên y thử phụng hành đừng sai Được như vậy mới là khỏi tội, Bằng chẳng thì ngục tối phải sa, Trong năm đại tội kể ra, Bất hiếu thứ nhứt, thật là trọng thay. Sau khi chết bị đày vào ngục Ngũ Vô Gián, cũng gọi A Tỳ, Ngục này trong núi Thiết Vi, Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề. Trong ngục này hàng ngày lửa cháy, Đốt tội nhơn hết thảy thành than, Có lò nấu sắt cho tan, Rót vào trong miệng tội nhơn hành hình. Một vá đủ cho người thọ khổ, Lột thịt da đau thấu tâm can, Lại có chó sắt, rắn gang, Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn. Ở trong ngục có giường bằng sắt, Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong, Rồi cho một ngọn lửa hồng Nuongs quay chúng nó da phồng thịt thau. Móc bằng sắt, thương đao, gươm giáo, Trên không trung đổ tháo như mưa, Gặp ai chém nấy chẳng chừa, Làm cho thân thể nát nhừ như tương. Những hình phạt vô phương kể hết, Mỗi ngục đều có cách trị riêng, Như là xe sắt phân thây, Chim ưng mổ bụng, trâu cày lưỡi le. Chớ chi đặng chết liền rất đỡ, Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân, Ngày đêm chết sống muôn lần. Đến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây. Sự hành phạt tại A Tỳ ngục, Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân Chúng ngươi đều phải ân cần, Thừa hành các việc phân trần khoản trên. Nhứt là phải kinh này in chép, Truyền bá ra cho khắp Đông Tây Như ai chép một quyển này, Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy, Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên Do theo nguyện lực tùy duyên, Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền Cha mẹ đặng xa miền khóc lãnh. Lại hóa sanh về cảnh thiên cung, Khi lời Phật giảng vừa xong, Khắp trong tử chúng một lòng kính vâng. Lại phát nguyện thà thân này nát, Ra tro bụi, muôn kiếp chẳng nài, Dẫu cho lưỡi kéo trâu cày, Đến trăm ngàn kiếp lời Thầy không quên. Ví như bị bá thiên đao kiếm. Khắp thân này đâm chém phân thây, Hoặc như lưới trói thân này, Trải trăm ngàn kiếp lời Thầy chẳng sai. Dẫu thân này bị cưa, bị chặt, Phân chia ra muôn đoạn rã rời, Đến trăm ngàn kiếp như vầy, Chúng con cũng chẳng trái lời Thầy khuyên. Đức A Nan kiền thiền đảnh lễ, Cầu Thế Tôn đặt để hiệu Kinh, Ngày sau truyền bá chúng sanh, Dễ bề phúng tụng, trì chuyên tu hành. Phật mới bảo A Nan nên biết, Quyển Kinh này quả thiệt cao xa, Đặt tên “BÁO HIẾU MẸ CHA”, Cùng là “ÂN TRỌNG” thiệt là chơn Kinh. Các ngươi phải giữ gìn chu đáo, Đặng đời sau y giáo phụng hành, Sau khi Phật dạy đành rành, Bốn hàng Phật tử rất mừng, rất vui. Thảy một lòng vâng theo lời Phật, Và kính thành tin chắc vẹn tuyền, Đồng nhau tựu tại Phật tiền, Nhứt tâm đảnh lễ rồi liền lui ra. NAM MÔ ĐẠI HIẾU MỤC KIỀN LIÊN BỒ TÁT 3 lần Bình luận Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Vũ Thị Hậu - Bác sĩ Chẩn đoán hình ảnh - Khoa Chẩn đoán hình ảnh và Y học hạt nhân - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City. Bác sĩ có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực chẩn đoán hình ảnh bao gồm cộng hưởng từ, CLVT và siêu âm. Loãng xương là bệnh lý rối loạn cân bằng giữa hai quá trình hủy xương và tạo xương của cơ thể. Loãng xương xuất hiện ở mọi lứa tuổi với nhiều nguyên nhân khác nhau. Chụp X-quang sẽ giúp bác sĩ chẩn đoán chính xác hơn tình trạng của bệnh loãng xương. 1. Loãng xương là gì? Loãng xương là một trong những dạng thay đổi cấu trúc bất thường của hệ xương khớp. Loãng xương còn gọi là thưa xương, là hiện tượng giảm canxi của xương, thường gặp trong thưa xương ở người già, do bất động ổ gãy lâu ngày, giai đoạn đầu của lao xương khớp và cốt tủy viêm....Loãng xương xảy ra khi xương mất dần canxi, khiến xương bị xốp, yếu và trở nên giòn và dễ gãy hơn. Nhiều người thường chủ quan với bệnh loãng xương do bệnh diễn tiến chậm theo thời gian, tuổi tác. Đến khi người bệnh cảm thấy đau, nhức trong xương là bệnh đã trở nặng, lúc đó người bệnh mới khám và dùng thuốc điều trị thì khó có cơ hội phục hồi do hệ xương trong cơ thể đã bị hao mòn quá nhiều. Tình trạng loãng xương sẽ càng trở nặng hơn khi về già. Do độ tuổi này, mật độ xương không đảm bảo đủ mức cho phép để bảo đảm xương cứng chắc như lúc ở tuổi trưởng thành. 2. Nguyên nhân gây loãng xương Loãng xương là bệnh phổ biến ở giai đoạn trung và cao tuổi. Để phòng ngừa bệnh loãng xương cần tìm hiểu các nguyên nhân gây bệnh như sau Do di truyềnYếu tố di truyền là một trong những nguyên nhân của bệnh loãng xương thường gặp. Nếu trong gia đình của bạn có người bị loãng xương thì nguy cơ mắc bệnh loãng xương của bạn cao hơn người những người Do chế độ dinh dưỡng không hợp lýChế độ ăn uống không hợp lý, thiếu canxi, vitamin C, vitamin D là một trong các nguyên nhân gây bệnh loãng xương khi về canxi Cơ thể bạn cần một lượng canxi liên tục trong máu vì nhiều cơ quan, đặc biệt là tim, cơ bắp và dây thần kinh của bạn phụ thuộc vào canxi, khi các cơ quan này cần canxi, chúng sẽ tự động lấy canxi từ xương. Theo thời gian, lượng canxi bị hao hụt nhiều, nếu bạn không bổ sung đầy đủ sẽ cạn kiệt canxi, xương sẽ bị mỏng và vitamin D Quá ít vitamin D có thể dẫn đến xương yếu và có nguy cơ mất xương. Trong số rất nhiều lợi ích của vitamin D, nó giúp cơ thể bạn hấp thụ và sử dụng Do lối sống và thói quen không lành mạnhNgồi bất động trong thời gian dài, hút thuốc lá, nghiện rượu, cafe ...cũng làm gia tăng nguy cơ bị loãng xương. Đối với những người ít vận động hoặc có tình trạng như tê liệt hoặc loạn dưỡng cơ, mất xương sẽ nhanh chóng xảy thuốc Những người hút thuốc có mật độ xương thấp hơn và nguy cơ gãy xương cao hơn những người không hút thuốc. Tác dụng độc hại trực tiếp của nicotine lên các tế bào xương đến việc ngăn chặn khả năng sử dụng estrogen, canxi và vitamin D của cơ nhiều rượu Rượu có thể ức chế quá trình tu sửa xương và tăng mất canxi của bạn, từ đó dẫn đến loãng Do ảnh hưởng của quá trình điều trị các bệnh khácTheo nghiên cứu những người bị bệnh viêm gan B, nhiễm trùng gan, viêm khớp dạng thấp, cường tuyến phó giáp, cường giáp...có nguy cơ bị loãng xương cao hơn bình Do thường xuyên sử dụng một số các loại thuốcUống một số loại thuốc có thể dẫn đến loãng xương. Phổ biến nhất là corticosteroid, còn được gọi là cortisone, hydrocortisone, glucocorticoids và prednison . Những loại thuốc này được sử dụng để điều trị hen suyễn, viêm khớp dạng thấp, bệnh vẩy nến, viêm đại tràng và một loạt các tình trạng khác. Thuốc chống động kinh cũng liên quan đến mất Do thay đổi nội tiết tố cơ thểEstrogen thấp ở phụ nữ Tốc độ mất xương càng lớn sau khi mãn kinh, khi phụ nữ lớn tuổi giảm estrogen nhanh chóng. Theo thời gian, nguy cơ loãng xương và gãy xương tăng lên khi phụ nữ lớn tuổi mất nhiều xương hơn so với thay thế. Phụ nữ bị mãn kinh sớm cũng bị tổn thương mật độ thấp ở nam giới Đàn ông cần cả testosterone và estrogen cho sức khỏe của xương. Đó là bởi vì đàn ông chuyển đổi testosterone thành estrogen bảo tồn cân bằng nội tiết tố khác Hormon tuyến cận giáp và hormon tăng trưởng đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh mật độ xương của bạn. Chúng giúp điều phối canxi cho xương sử dụng và khi nào sẽ tích tụ và phá vỡ xương. Nhưng quá nhiều hormon tuyến cận giáp, được gọi là cường tuyến cận giáp, gây mất canxi. Hút thuốc lá, nghiện rượu, cafe ...cũng làm gia tăng nguy cơ bị loãng xương 3. Dấu hiệu loãng xương Những biểu hiện lâm sàng chỉ xuất hiện khi trọng lượng xương giảm trên 30%. Sự xuất hiện từ từ tự nhiên hoặc sau một chấn thương, đôi khi tình cờ chụp X quang mà sống giảm dần chiều cao, biến dạng đường cong sinh lý dẫn đến gù vùng lưng hay thắt lưng, chiều cao cơ thể giảm đi rõ rệt so với khi còn trẻ tuổi. Xương dễ gãy, đôi khi chỉ một chấn thương nhẹ cũng làm gãy cổ xương đùi, gãy đầu dưới xương quay, gãy lún đốt sống. Phim X-quang đánh giá loãng xương qua việc thể hiện trên màu sắc của xương giảm sáng hơn so với bình thường, xuất hiện trạng thái xương lún tại đốt sống. Chụp X-quang đánh giá mật độ xương dọc cột sống và thắt lưng, xương vùng đùi, vùng cổ tay, đánh giá lượng xương mất đi hoặc tỉ lệ xương đang bị bào chụp X-quang quy ước Hình ảnh đốt sống tăng thấu quang, biến dạng thân đốt sống gãy làm xẹp và lún các đốt sống, với các xương dài thường giảm độ dày vỏ xương khiến ống tủy rộng phim X-quang có thể phát hiện 2 hình thái loãng xương rõ ràngLoãng xương khu trú Điểm loãng xương tập trung ở một vùng nhìn thấy rõ ràng, tại vũng đó màu sắc xương bị giảm, còn các vùng xương khác vẫn đều màu và đồng bộ bình xương lan tỏa Thường gặp trong trường hợp bệnh nhân mắc bệnh tính chất hệ thống như rối loạn chuyển hóa cường cận giáp, thiếu chất, còi xương nhuyễn xương, người bất động lâu ngày, phụ nữ mãn hiện trên phim là màu sắc của xương giảm sáng đồng đều, bờ viền xương không rõ nét, giới hạn đường bờ mờ vì có nhiều ổ khuyết nhỏ ở xương. 5. Phòng ngừa loãng xương Tập thể dục thể thao thường xuyên sẽ kích thích sự hình thành xương và tăng trưởng cơ bắp Tập thể dục thể thao thường xuyên sẽ kích thích sự hình thành xương và tăng trưởng cơ bắpỞ Việt Nam, loãng xương là bệnh tật phổ biến đứng hàng thứ hai, chỉ sau bệnh tim mạch, ảnh hưởng đến 1/3 phụ nữ và 1/8 đàn ông trên 50 vì vậy, cần phải có biện pháp phòng ngừa loãng xương ngay từ khi còn khoẻ Chăm chỉ vận độngTập thể dục thể thao thường xuyên sẽ kích thích sự hình thành xương và tăng trưởng cơ bắp. Tuy nhiên, cần chọn cho mình những môn thể thao rèn luyện cơ thể phù hợp. Nếu không có thể khiến cơ thể bị tổn thương ngược Cung cấp đủ canxi và vitamin thiết yếuBổ sung vào thực đơn hàng ngày thực phẩm giàu canxi và vitamin sẽ giúp phòng ngừa và hỗ trợ điều trị bệnh loãng Tắm nắng đúng cáchBằng tác dụng của ánh nắng mặt trời, tiền vitamin D dưới da sẽ hoạt hóa thành vitamin D3. Mỗi ngày chỉ nên phơi nắng 15 phút và vào khoảng 6 – 9 giờ Tránh xa chất kích thíchCafein có trong cafe làm tăng sự bài tiết của canxi qua đường tiết niệu. Thuốc lá và rượu sẽ kích thích quá trình mất xương. Vì vậy nên tránh xa chất kích Cẩn thận khi dùng thuốcCorticoid làm rối loạn sự đồng hóa canxi và cản trở hình thành mô xương. Vì vậy chỉ nên uống thuốc chứa corticoid khi có chỉ định của bác yếu đi nếu chúng không hoạt động hoặc không được bổ sung dinh dưỡng đúng cách. Phương pháp chụp X-quang có thể đánh giá mật độ xương mất đi để xác định chính xác tình trạng loãng xương trong cơ thể mà mắt thường không thấy được. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. XEM THÊM Gãy xương chậu bao lâu thì khỏi và đi lại được? Xét nghiệm mật độ xương là gì? Ai nên kiểm tra mật độ xương? Cảnh giác chấn thương đầu gối khi chạy bộ

đàn ông xương trắng nặng quằn