điều 104 bộ luật hình sự 1999

Bộ luật hình sự này được kiến thiết xây dựng trên cơ sở thừa kế và phát huy những nguyên tắc, chế định pháp luật hình sự của nước ta, nhất là của Bộ luật hình sự năm 1985, cũng như những bài học kinh nghiệm kinh nghiệm tay nghề từ thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm trong nhiều thập Quyết định Tặng Kỷ niệm chương "Vì sự nghiệp Kiểm sát" năm 2022 Quyết định công nhận sáng kiến cấp cơ sở năm 2022 Thông báo về việc phát sóng phim truyền hình "Hành trình công lý" MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHÚ Ý TRONG VIỆC XÂY DỰNG CÁO TRẠNG Tóm lại, hành vi của chấu bạn đã cấu thành Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác được quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự 1999. Tuy nhiên, do cháu bạn chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên cháu bạn sẽ không bị truy cứu 2.2.2. Bộ luật hình sự Trung Quốc. BLHS của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ II, ngày 01/7/1979, có hiệu lực từ ngày 01/01/1980. Luật sửa đổi, bổ sung BLHS này được sửa đổi vào năm 1997, có hiệu lực từ ngày 01/10/1997. Sau Cơ quan điều tra VKSND tối cao có thẩm quyền điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ luật hình sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan Điều tra, Tòa án nhân dân, Viện a) Sau khi bị kết án, người bị kết án tử hình đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm; b) Sau khi bị kết án, người bị kết án tử hình đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và lập công lớn. 2. Vay Tiền Nhanh Ggads. Điều 104 Bộ luật hình sự về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác được áp dụng khi thương tích của nạn nhân là bao nhiêu? Người chưa thành niên phạm tội tại Điều 104 này thì được xử lý thế nào? Nội dung câu hỏi Chào luật sư, Cháu tôi là A 15 tuổi đánh nhau với bạn học cùng là B khiến B bị thương nặng. Tỷ lệ thương tật của B được xác định là 20%. Như vậy, cháu tôi có phạm tội cố ý gây thương tích không và hình phạt đối với tội này như nào? Cảm ơn luật sư! Luật sư tư vấn Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến Bộ phận tư vấn pháp luật của công ty Luật Nguyễn Hà. Với thắc mắc của bạn, công ty chúng tôi xin đưa ra nội dung tư vấn như sau Cấu thành tội phạm của tội cố ý gây thương tích được quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự 1999 như sau - Về chủ thể chủ thể của tội này là chủ thể thường. Do đây là tội phạm do cố ý nên người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu phạm tội thuộc khoản 3 và 4. - Về khách thể hành vi phạm tội xâm phạm đến quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khoẻ của con người. - Về mặt chủ quan Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý, tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có thể gây ra thương tích cho người khác; mong muốn hoặc để mặc cho nạn nhân bị thương, bị tổn hại đến sức khoẻ nhưng không mong muốn nạn nhân chết. - Về mặt khách quan Người phạm tội có hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ của người khác trái pháp luật gây hậu quả là người đó bị ảnh hưởng về sức khoẻ, được xác định bằng tỷ lệ thương tật. Cố ý gây thương tích cho người khác - Điều 104 BLHS Về trường hợp của cháu bạn, do tỷ lệ thương tật của B là 20% nên trường hợp phạm tội của cháu thuộc khoản 1 Điều 104 BLHS 1999. Tuy nhiên, căn cứ theo dấu hiệu về chủ thể, do cháu bạn mới 15 tuổi nên cháu sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích trong trường hợp này. Tuy nhiên, theo nguyên tắc xử lý của BLHS đối với người chưa thành niên phạm tội, cháu bạn có thể bị áp dụng biện pháp tư pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 70 như sau "Điều 70. Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội Đối với người chưa thành niên phạm tội, Toà án có thể quyết định áp dụng một trong các biện pháp tư pháp có tính giáo dục, phòng ngừa sau đây a Giáo dục tại xã, phường, thị trấn; b Đưa vào trường giáo dưỡng." Tóm lại, hành vi của chấu bạn đã cấu thành Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác được quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự 1999. Tuy nhiên, do cháu bạn chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên cháu bạn sẽ không bị truy cứu về tội này. Trên đây là ý kiến tư vấn của công ty Luật Nguyễn Hà. Hy vọng với ý kiến tư vấn trên, Quý khách hàng sẽ có hướng giải quyết vấn đề của mình một cách tốt nhất. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào chưa rõ cần hỗ trợ, Quý khách hàng vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 số để được tư vấn cụ thể và chính xác nhất. Trân trọng! Từ khoá Số Hiệu, Tiêu đề hoặc Nội dung ngắn gọn của Văn Bản... Thuộc tính Nội dung Tiếng Anh English Văn bản gốc/PDF Lược đồ Liên quan hiệu lực Liên quan nội dung Tải về Số hiệu 32/1999/NQ-QH10 Loại văn bản Nghị quyết Nơi ban hành Quốc hội Người ký Nông Đức Mạnh Ngày ban hành 21/12/1999 Ngày hiệu lực Đã biết Ngày công báo Đã biết Số công báo Đã biết Tình trạng Đã biết QUỐC HỘI ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ******** Số 32/1999/NQ-QH10 Hà Nội, ngày 21 tháng 12 năm 1999 NGHỊ QUYẾT VỀ VIỆC THI HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Căn cứ vào Điều 84 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992; QUYẾT NGHỊ 1. Bộ luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2000. Bộ luật hình sự này thay thế Bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua ngày 27 tháng 6 năm 1985 và các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua ngày 28 tháng 12 năm 1989, ngày 12 tháng 8 năm 1991, ngày 22 tháng 12 năm 1992 và ngày 10 tháng 5 năm 1997. Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tự mình hoặc phối hợp tổ chức việc rà soát các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự hiện hành để huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới; đề nghị Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới cho phù hợp với quy định của Bộ luật hình sự này, bảo đảm hiệu lực của Bộ luật từ ngày 01 tháng 7 năm 2000. 2. Kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2000, Bộ luật hình sự được áp dụng như sau a Tất cả các điều khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng để điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm 2000; b Các điều luật xoá bỏ một hình phạt, một tình tiết tăng nặng; quy định hình phạt nhẹ hơn, tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm 2000 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xoá án tích; c Các điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá án tích và các quy định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không áp dụng đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm 2000 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xoá án tích; trong trường hợp này, vẫn áp dụng quy định tương ứng của các văn bản pháp luật hình sự trước đây để giải quyết; d Đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm 2000 và đã có bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, thì không được căn cứ vào những quy định của Bộ luật hình sự này có nội dung khác so với các điều luật đã được áp dụng khi tuyên án để kháng nghị giám đốc thẩm; trong trường hợp kháng nghị dựa vào căn cứ khác hoặc đã kháng nghị trước ngày 01 tháng 7 năm 2000, thì việc xét xử giám đốc thẩm phải tuân theo quy định tại điểm b và điểm c Mục này. 3. Kể từ ngày Bộ luật hình sự này được công bố a Không áp dụng hình phạt tử hình khi xét xử người phạm những tội mà Bộ luật hình sự này đã bỏ hình phạt tử hình, đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử; b Hình phạt tử hình đã tuyên đối với những người được nêu tại điểm a Mục này nhưng chưa thi hành, thì không thi hành nữa và được chuyển xuống hình phạt cao nhất mà Bộ luật hình sự này quy định đối với hành vi phạm tội đó; trong trường hợp điều luật mới vẫn giữ hình phạt tử hình, thì đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, hình phạt tử hình đã tuyên được chuyển thành tù chung thân; c Không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là tội phạm nhưng Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm; nếu vụ án đang được điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; trong trường hợp người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì họ được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt; d Không xử lý về hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đến bảy năm tù; nếu vụ án đang được điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người đó đã bị kết án và đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; nếu người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt; đ Những người đã chấp hành xong hình phạt về một tội mà Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm nữa hoặc được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc phần hình phạt còn lại theo điểm c và điểm d Mục này, thì đương nhiên được xoá án tích. 4. Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận tuyên truyền, phổ biến rộng rãi Bộ luật hình sự này trong cán bộ và nhân dân nhằm phát huy tác dụng của Bộ luật hình sự trong đấu tranh phòng, chống tội phạm trên mọi lĩnh vực quản lý nhà nước và trong đời sống xã hội. Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21tháng 12 năm 1999. Lưu trữ Ghi chú Ý kiếnFacebook Email In Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh Nghị quyết số 32/1999/NQ-QH10 ngày 21/12/1999 về việc thi hành Bộ luật Hình sự do Quốc Hội ban hành Theo quy định tại Điều 104 bộ luật hình sự 1999 có quy định về tôi cố ý gây thương tích và tổn hại cho sức khỏe của người khác. Có thể thấy hành vi cố ý gây thương tích là hành vi nguy hiểm được quy định ở tất cả các bộ luật hình sự. Hãy cùng Luật Rong Ba tìm hiểu về nội dung điều 104 bộ luật hình sự 1999 và một số văn bản hướng dẫn qua bài viết dưới đây nhé! Quy định về điều 104 bộ luật hình sự 1999 Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm a Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người; b Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; c Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người; d Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; đ Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; e Có tổ chức; g Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; h Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê; i Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm; k Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân. Văn bản hướng dẫn điều 104 bộ luật hình sự 1999 Nghị quyết 01/HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 hướng dẫn một số qui định của Bộ luật hình sự sd 2010 Điểm 3. Về một số tình tiết quy định tại khoản 1 Điều 104 của BLHS Tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 104 của BLHS “Dùng hung khí nguy hiểm” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 104 của BLHS là trường hợp dùng vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm theo hướng dẫn tại các tiểu mục và mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17-4-2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao để cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác. Ví dụ Theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17-4-2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì dao nhọn là phương tiện nguy hiểm và đã được A sử dụng gây thương tích cho B thì thuộc trường hợp “dùng hung khí nguy hiểm”. Tình tiết “phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104 của BLHS a “Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104 của BLHS được hiểu là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người từ hai lần trở lên hoặc của hai người trở lên có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi người và trong các lần đó chưa có lần nào bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu xử lý hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc áp dụng tình tiết “phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người” để xét xử bị cáo theo khoản 1, khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 104 của BLHS được thực hiện theo hướng dẫn tại các điểm b, c và d tiểu mục này. b Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104 của BLHS để xét xử bị cáo theo khoản 1 Điều 104 của BLHS trong các trường hợp sau đây Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người từ hai lần trở lên mà mỗi lần tỷ lệ thương tật dưới 11%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả các lần từ 11% trở lên. điều 104 bộ luật hình sự 1999 Trường hợp trong các lần đó chỉ có một lần tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 11% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 1 Điều 104 của BLHS. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của hai người trở lên có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi người mà mỗi lần tỷ lệ thương tật dưới 11%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả các lần từ 11% trở lên. Trường hợp trong các lần đó chỉ có một người một lần tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 11% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 1 Điều 104 của BLHS. c Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104 của BLHS để xét xử bị cáo theo khoản 2 Điều 104 của BLHS trong các trường hợp sau đây Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người từ hai lần trở lên mà có ít nhất hai lần tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%. Trường hợp trong các lần đó chỉ có một lần tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 31% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 2 Điều 104 của BLHS. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của hai người trở lên có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi người mà trong đó có ít nhất hai người và mỗi người một lần tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%. Trường hợp trong các lần đó chỉ có một người một lần tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 31% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 2 Điều 104 của BLHS. d Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104 của BLHS để xét xử bị cáo theo khoản 3 Điều 104 của BLHS trong các trường hợp sau đây Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người từ hai lần trở lên mà có ít nhất hai lần tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%. Trường hợp trong các lần đó chỉ có một lần tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 61% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 3 Điều 104 của BLHS. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của hai người trở lên có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi người mà trong đó có ít nhất hai người và mỗi người một lần tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%. Trường hợp trong các lần đó chỉ có một người một lần tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 61% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 3 Điều 104 của BLHS. Tình tiết “đối với thầy giáo, cô giáo của mình” quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 104 của BLHS a Chỉ áp dụng tình tiết “đối với thầy giáo, cô giáo của mình” quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 104 của BLHS để xét xử bị cáo theo khoản 1 Điều 104 của BLHS khi có đầy đủ các điều kiện sau đây Nạn nhân phải là thầy giáo, cô giáo tức là người đã hoặc đang làm công tác giảng dạy theo biên chế hoặc theo hợp đồng tại cơ quan, tổ chức có chức năng giáo dục, đào tạo, dạy nghề được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép; Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân là vì lý do thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, dạy nghề của họ đối với bị cáo, không phân biệt nhiệm vụ đó đã được thực hiện hay đang được thực hiện và không kể thời gian dài hay ngắn; Tỷ lệ thương tật của nạn nhân dưới 11%. b Chỉ áp dụng tình tiết “đối với thầy giáo, cô giáo của mình” quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 104 của BLHS để xét xử bị cáo theo khoản 2 Điều 104 của BLHS khi có đầy đủ các điều kiện sau đây Các điều kiện được hướng dẫn tại các điểm và tiểu mục này; Tỷ lệ thương tật của nạn nhân từ 11% đến 30%. c Chỉ áp dụng tình tiết “đối với thầy giáo, cô giáo của mình” quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 104 của BLHS để xét xử bị cáo theo khoản 3 Điều 104 của BLHS khi có đầy đủ các điều kiện sau đây Các điều kiện được hướng dẫn tại các điểm và tiểu mục này; Tỷ lệ thương tật của nạn nhân từ 31% đến 60%. Nghị quyết 02/HĐTP ngày 17 tháng 4 năm 2003 hướng dẫn áp dụng một số qui định của BLHS Phần tội phạm sd 2010 [MỤC I. VỀ MỘT SỐ TÌNH TIẾT LÀ YẾU TỐ ĐỊNH TỘI HOẶC ĐỊNH KHUNG HÌNH PHẠT] Điểm 1. Về tình tiết “gây cố tật nhẹ cho nạn nhân” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình sự. “Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân” là hậu quả của hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân để lại trạng thái bất thường, không thể chữa được cho một bộ phận cơ thể của nạn nhân với tỷ lệ thương tật dưới 11% khi thuộc một trong các trường hợp làm mất một bộ phận cơ thể của nạn nhân; làm mất chức năng một bộ phận cơ thể của nạn nhân; làm giảm chức năng hoạt động của một bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc làm ảnh hưởng đến thẩm mỹ của nạn nhân. Trên đây là toàn bộ tư vấn của Luật Rong Ba về điều 104 bộ luật hình sự 1999. Nếu như bạn đang gặp phải khó khăn trong quá trình tìm hiểu về điều 104 bộ luật hình sự 1999 và những vấn đề pháp lý liên quan, hãy liên hệ Luật Rong Ba để được tư vấn miễn phí. Chúng tôi chuyên tư vấn các thủ tục pháp lý trọn gói, chất lượng, uy tín mà quý khách đang tìm kiếm.

điều 104 bộ luật hình sự 1999